biểu cảm về món ăn đặc sản quê hương
BIỂU CẢM VỀ QUÊ HƯƠNG. ĐOẠN VĂN 1. "Quê hương là chùm khế ngọt. Cho con trèo hái mỗi ngày. Quê hương là đường đi học. Con về rợp bướm vàng hay". Lời bài hát được phổ nhạc từ lời thơ. tiếng nói da diết của nhà thơ Đỗ Trung Quân dường như đã đi sâu vào trong
Văn mẫu lớp 7: Biểu cảm về món quà quê cốm gồm nhiều bài văn mẫu, dàn bài hay các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo. Dàn ý đề bài nêu cảm nghĩ về tình bà cháu trong “Tiếng gà
THƯỞNG THỨC VÀ CẢM NHẬN HƯƠNG VỊ HUẾ QUA CÁC MÓN ĂN ĐẶC SẢN. 02/06/2016 11:330 GMT+7. Giới thiệu và chia sẻ thông tin về các món ăn đặc sản tại cố đô Huế xinh đẹp. Những món ăn mang phong cách cung đình với những món ăn dân dã, hết sức gần gũi với du khách. Nền ẩm
Quê hương là tuổi thơ trong mỗi con người. Hãy luôn yêu quý quê hương của mình, trân trọng những giá trị tốt đẹp. Để bảo vệ và giữ gìn những giá trị tốt đẹp của dân tộc, của quê hương mình.
[Văn 7] Biểu cảm về quê hương của em Mở bài. Mỗi người chúng ta đều có rất nhiều nơi để đi nhưng chỉ có một nơi để quay về, ấy là quê hương. Là nơi có mẹ, có bà có họ hàng, xóm giềng mong đợi. Tôi yêu quê hương của mình bằng tình yêu của đứa con xa.
model cincin yang cocok untuk jari gemuk. 1. Thuyết minh về đặc sản của quê hương em - Mỳ Quảng Mỗi vùng, mỗi dân tộc, mỗi tỉnh có một đặc sản riêng, nó là tiếng nói chung sở thích chung mà ông cha ta để lại. Mang tầm nhìn văn hóa đối với vùng đó, dân tộc đó. Cũng vì vậy mà khi đến từng nơi mọi người thường hay thưởng thức đặc sản ở đó và mua về làm quà cho gia đình cho bạn bè. Cũng vậy đến với vùng văn hóa của miền trung, gé thăm Quảng Nam. Ở đây đặc sản nổi tiếng là mỳ quảng và gà ta Tam Kỳ. Đi một tí là chúng tôi thấy quán mỳ quảng và gà ta. Dù biết hai món này được bán rất nhiều ở thành phố nhưng chúng tôi vẫn thích ăn. Ghé bên đường, chúng tôi vào một quán mỳ quảng nhỏ thôi. Nhưng cách phục vụ ở đây rất chu đáo, bà chủ nhìn chúng tôi với ánh mắt trìu mến như gọi mời đến với xứ Quảng vậy. Không chỉ vậy à còn trò chuyện hỏi thăm rồi làm cho chúng tôi mỗi người một tô mỳ quảng đặc biệt. Khi ăn chúng tôi ăn từng miếng một thưởng thức một cách từ và nhẹ nhàng, hương vị nó khác xa so với ở thành phố mà chúng tôi ăn. Có vị đậm đà, mặn mà của thịt và tôm, mùi thơm của chén nước mắm bốc lên làm chúng tôi rất thích. Tại đây chúng tôi được trò chuyện cùng bà chủ quán ở đây, chúng tôi hỏi về cách để làm một tô mỳ ngon, bà chủ vẫn không ngại ngần vẫn chia sẻ bí quyết cho chúng tôi một cách cỡ mỡ. bà nói bí quyết để nấu ngon rất dể bà chỉ sơ qua cho chúng tôi một cách tỉ mỉ. Bà chỉ cho chúng tôi về cách chọn nguyên liệu cũng như cách chế biến. Bà nói Muốn có một tô mì ngon, thì sợi mì phải mềm dai, dài và không bị nát muốn vậy phải dùng gạo tốt gạo nguyên. Nước nhưng của mì là quan trọng nhất nó ảnh hưởng đến mùi vị của mì. Nước nhưng phải có vị ngọt tinh khiết của xương heo, do vậy xương phải ninh từ đêm hôm trước, đun lửa vừa phải và chỉ ninh đến khi xương mềm. Nếu không phải là xương mà là thịt thì phải là thịt đùi thái lát to, không mỏng quá cũng không dày quá, ướp gia vị đầy đủ rồi xào lên cho đến khi gia vị thấm đều miếng thịt. Để tạo màu sắc cho nước nhưng người ta thường phi loại ớt bột ít cay trong mỡ để cho vào nước nhưng làm cho tô mì còn những hạt mỡ vàng lóng lánh trên mặt. Khi tô mì được mang ra, trên mì có vài con tôm xào đỏ thắm, nửa quả trứng vịt cùng dăm lát thịt và xương heo, rắc thêm một nhún hành lá thái nhỏ, vài hạt đậu phộng rang cùng mấy lát ớt đỏ xếp bên cạnh một dĩa rau sống. Mùi xương mùi thịt hoà thành thứ hương thơm đặc biệt. Thật tuyệt vời với bí quyết thế này. Dừng lại tại đây chúng tôi ăn xong nghỉ trò chuyện tí và trả tiền đi ra. Khi lên xe đi tới chỗ khác, nhưng chúng tôi vẫn không muốn đi, cứ chần chừ mãi. Có lẽ cái mặn mà của mỳ quảng và cách nói chuyện của người chủ quán làm chúng tôi không muốn rời. Lên xe, nhưng tôi vẫn nhớ mãi bí quyết mà bà chủ chia sẻ, hi vọng tôi sẽ làm được như lời bà chỉ dạy. Và ngon đậm đà nhưng hương vị và nền văn hóa của xứ Quảng này bày dạy. 2. Thuyết minh về đặc sản của quê hương em - Bún thang Vốn là mảnh đất ngàn năm văn hiến, Hà Nội đã hình thành cho mình một nét văn hóa ẩm thực riêng. Sau những ngày tết bận rộn, vui chơi, ăn uống, với nhiều loại thức ăn đồ uống chứa nhiều dầu mỡ, như thịt heo, gà nhiều loại bánh như bánh chưng, bánh tét và các loại bánh ngọt khác. Dễ khuyến còn người ta có cảm giác ăn uống không còn thấy ngọn nữa. Người Hà Nội lại làm những bữa bún thang thanh đạm mà không kém phần hấp dẫn. Bún thang ra đời từ khi nào không ai rõ chỉ biết rằng hình ảnh bát bún thang từ lâu đã gắn bó với hình ảnh những cô gái của Hà Nội 36 phố phường duyên dáng, khéo léo và đảm đang. Để làm được món bún thang phải chuẩn bị nguyên liệu khá cầu kỳ, để món ăn thêm phần hấp dẫn với các nguyên liệu như bún, thịt gà, trứng gà, tôm nõn, nem chạo, xương lợn, rau thơm việc lựa chọn và chế biến các nguyên liệu ấy cũng rất tinh tế. Bún phải là thứ bùn sợi nhỏ trắng trong không có mùi chua. Thịt gà luộc chín xé sợi nhỏ, trứng gà lựa lấy trứng những lớp mỏng và khô rồi cuộn lại thái thành những sợi nhỏ. Với tôm nõn ta phải ngâm một lát để ráo nước rồi giả bông, rau thơm rửa sạch thái nhỏ, riêng với nem chạo thì ta để nguyên. Xương lợn là nguyên liệu dùng để nấu nước dùng vì vậy ta nên chọn xương ống vừa rẻ vừa ngọt nước. Ta rửa sạch sương chặt đôi từng khúc cho vào luộc sơ qua rồi rửa sạch. Xương sau khi rửa mới có thể nấu làm nước dùng. Khi nấu ta cho đầy đủ gia vị, nêm vừa miệng là được. Ban đầu để lửa to sau khi sôi để lửa nhỏ cho xương mềm. Sau khi chế biến xong các nguyên liệu ta chuẩn bị cho bữa ăn. Lấy một bát to ta đặt vào đó lần lượt bún, thịt gà xé sợi, trứng gà thái sợi, tôm bông nem chạo, rau thơm rồi cho nước dùng vào. Ta sẽ có bát bún thang với màu trắng của bún, màu trắng ngà của thịt gà, màu vàng của trứng, màu hồng của tôm bông, màu nâu của nem chạo, màu xanh của rau thơm. Đặc biệt sự trong veo của nước dùng sẽ làm nổi lên những màu sắc hấp dẫn của bác bún thang. Hương vị của bún thang rất thanh đạm khác hẳn cái béo ngậy của thịt mỡ, đồ nếp. Bún thang thường được dùng sau những ngày tết ồn ào hay trong những ngày hè cần một món ăn nhẹ nhàng, mát dịu. Bún thang cùng với Phở, bánh tôm. Đã trở thành đặc trưng của ẩm thực Hà Nội. Bún thang ẩn chứa trong đó sự khéo léo, tinh tế tỉ mĩ của những nghệ nhân ẩm thực đất Hà Thành. Vì thế bún thang đã để thương, để nhớ cho tâm hồn biết bao người con đất Kinh kì, cũng như những du khách may mắn trong đời có lần được đến Thủ đô. 3. Thuyết minh về đặc sản của quê hương em - Nem chua Nem chua Thanh Hóa là món ăn nổi tiếng, là niềm tự hào của người dân nơi đây. Món này được chế biến hết sức kỳ công, qua nhiều công đoạn kỹ lưỡng, từ khâu chọn nguyên liệu cho tới khi đóng gói sản phẩm. Thịt để làm nem phải là loại thịt nóng, nghĩa là khi heo vừa mới xẻ thịt thì người thợ làm nem phải thái, xay, chế biến ngay, không để lâu. Bởi nếu thịt nguội, nem sẽ không có độ bóng cũng như sự kết dính trong quá trình lên trước khi chưa có máy xay thịt, người thợ phải giã thịt bằng tay trên những cối đá lớn. Theo kinh nghiệm của những gia đình làm nem truyền thống, thì thịt giã cối đá sẽ có độ giòn, quánh, dính hơn là thịt xay máy. Bì lợn cũng phải chọn rất kỹ, heo lấy bì phải là heo cạo chín, nghĩa là làm bằng nước sôi. Có như thế lông mới sạch và khi chế biến sẽ đỡ tốn thời gian. Để có những sợi bì trong, ngon, người thợ phải cạo thật sạch tất cả những phần mỡ còn sót lại trên bì, cho tới khi lớp bì mỏng, trắng tinh, trong suốt thì được. Bì càng làm kỹ bao nhiêu thì khi thái chỉ, bì càng giòn và dai bấy nhiêu. Khi nguyên liệu chính là thịt và bì đã xong, người thợ sẽ trộn hai hỗn hợp này lại với nhau cùng các loại gia vị muối, bột ngọt, đường, nêm thêm chút nước mắm cho thơm. Sau đó mang hỗn hợp thịt trên ra đóng gói. Mỗi một chiếc nem được người gói cho kèm thêm chút tỏi, lá đinh lăng, ớt, những phụ gia này có tác dụng làm cho hương vị nem trở nên ngon hơn, hấp dẫn hơn và cũng là để cân bằng giữa lạnh nem chua với nóng lá đinh lăng, ớt. Lá chuối gói nem phải là lá chuối ngự vừa xanh vừa dày, bởi trong quá trình vận chuyển và lưu giữ nem vẫn tiếp tục lên men. Để bảo quản được dài ngày, người thợ thường bọc giấy bóng thêm bên trong nem. Thông thường nem gói sau 3 ngày là chín, có thể dùng được. Bóc lớp lá chuối màu xanh ở ngoài, đã thấy lộ ra màu hồng của thịt, màu trắng của sợi bì, màu đỏ của ớt. Khi thưởng thức sẽ gặp vị chua thanh của thịt, dai giòn của sợi bì, cay của ớt, thơm của tỏi, chát ngọt của đinh lăng một hương vị rất riêng mà không phải nem chua nơi nào cũng có như nem chua xứ Thanh. Nem Thanh có vị lạ rất khác với nem chua Hà Nội hay nem lụi ở Huế, lại càng khác xa với nem rán hay nem tai. Nó vừa chua, vừa cay lại có cả vị mặn mà của gia vị, có vị ngọt của thịt làm ta không thể không ăn tiếp vài cái nữa. Nem chua Thanh Hoá vừa ngon, vừa rẻ nhưng có điều rất lạ và hay là có thể làm đồ nhắm, cũng có khi ăn với cơm. Tiện hơn cả là ở đâu ta cũng có thể nhấm nháp hương vị hấp dẫn của nó. Nghĩ đến nem chua quê mình đầu lưỡi tôi lại cay cay, ngọt ngọt. Khó mà tả được cảm giác sung sướng khi được ăn một vài miếng nem chua ở quê hương mình trong lúc đang ở nơi xa xôi. Ai đi qua xứ Thanh cũng phải nếm thử hương vị lạ của những chiếc nem xinh xắn. Người dân xứ Thanh vào Nam ra Bắc, dù bận trăm công nghìn việc, dù mang vác nặng nề cũng cố đem vài chục chiếc để cho người nhà hoặc biếu người thân. Ngày lễ Tết hoặc cưới xin, nem chua trở thành món ngon không thể thiếu. Kèm với những cặp bánh chưng xanh, những chiếc giò ngày Tết là những xâu nem chua làm từ chất liệu quê hương mời khách đến chơi nhà. Nếu có dịp dừng chân nơi miền đất này, mời bạn hãy thưởng thức nem chua xứ chua chua, ngọt ngọt đậm đà gia vị tạo nên hương thơm khó quên của món nem chua Thanh chua Thanh Hóa nổi tiếng xưa nay khắp một dải đất dài từ Nam ra Bắc. Người Thanh Hóa tự hào với bạn bè nơi nơi vì có một thứ quà không phải nơi nào cũng cứ học là làm được, mà nó được truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời khác qua nhiều năm nay. 4. Thuyết minh về đặc sản của quê hương em - Bánh gai Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo. Từ một câu ca đến những huyền thoại “Muốn ăn bánh ít lá gai Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi” Ca dao Chiếc bánh ít lá gai là một đặc trưng của xứ dừa Bình Định. Không chỉ đặc trưng từ hương vị ngọt bùi thơm dẻo kết tinh từ lao động và sáng tạo của người nông dân; không chỉ đặc trưng từ hình dáng tựa những ngôi tháp Chàm cổ kính rêu phong, từ sắc màu đen lục của lá gai và nếp dẻo mà còn đặc trưng bởi cái tên gọi mang đầy chất huyền thoại. Theo sự tích xưa, thì sau khi chàng Lang Liêu - con trai của vua Hùng thứ sáu đã thắng cuộc trong hội thi làm các món ăn để cúng trời đất, tổ tiên trong ngày tết đầu năm mới với hai thứ bánh ngon lành và đầy ý nghĩa là bánh chưng và bánh dày, một nàng con gái út của vua thường được mọi người gọi trìu mến là nàng Út ít, vốn rất giỏi giang, khéo léo trong công việc bếp núc, đã nhân dịp đó trổ tài, sáng tạo thêm ra những món bánh mới. Nàng Út muốn có một thứ bánh mới vừa mang hương vị bánh dày, vừa mang hương vị bánh chưng của anh mình. Nàng liền lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng. Thứ bánh mới này quả đã đạt được yêu cầu tuy hai mà một của nàng Út. Có thứ bánh mới, nàng Út lại suy nghĩ rồi quyết định phỏng theo hình dáng của bánh dày và bánh chưng để làm thành hai dáng bánh khác nhau, một thứ dáng tròn không gói lá, giống hệt như bánh dày, mộ thứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống hệt như bánh chưng để đạt được ý nghĩa “tuy hai mà một”. Nhưng cả hai thứ bánh đó đều làm nho nhỏ xinh xinh để tỏ ý khiêm nhường với thứ bậc út ít của mình trước các anh chị. Sau hội thi, ngoài bánh dày, bánh chưng được coi như những thứ bánh thiêng liêng ra, những cặp bánh mang ý nghĩa “tuy một mà hai, tuy hai mà một” của nàng Út cũng được mọi người khen ngợi không ngớt. Sau này, những thứ bánh ấy được lưu truyền trong dân gian, mọi người làm theo và cứ gọi bánh này là bánh Út Ít. Trải qua nhiều thời đại, bánh nàng Út Ít đã được cải tiến trở thành nhiều hình vẻ hơn và tên bánh được gọi vắn tắt là bánh út ít, rồi thành bánh ít như ngày nay. Cũng có người giải thích rằng loại bánh này nhiều hình nhiều vẻ Thứ gói lá, thứ để trần, nặn cao, nặn dẹt, thứ trắng, xanh, đen, thứ nhân dừa, nhân đậu nên khi làm bánh, dù là để ăn hay để bán, người ta cũng thường làm mỗi thứ một ít cho có thứ nọ, thứ kia, đủ vẻ, đủ hình, do đó mà thành bánh ít. Có câu ca dao "Bánh thật nhiều, sao kêu bánh ít Trầu có đầy sao gọi trầu không?" Đó là cách lý giải của người Việt xưa, còn người Bình Định thì lại lý giải bằng cách liên hệ giữa hình dáng bánh ít với tháp Chàm ở Bình Định. Hầu hết các tháp Chàm ở Bình Định đều đứng trên đồi cao, tạo một đỉnh nhọn ở giữa như chiếc bánh ít. Và thực tế, tại Bình Định cũng có hẳn một ngôi tháp mang tên Bánh Ít đi vào ca dao "Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di Vật vô tri cũng thế huống chi tui với bà." Cách lý giải thứ hai là dựa vào tục lễ hồi dâu của các cặp vợ chồng mới cưới. Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo. Món quà tuy “ít”, nhưng là “của ít lòng nhiều”, ở đó nó còn có cả những giọt mồ hôi, sự nhẫn nại kiên trì, đôi bàn tay khéo léo, và đặc biệt là tấm lòng hiếu để của cô gái xa cha mẹ về làm dâu xứ người. Dù chỉ trong ba ngày cưới, bận rộn với bao nhiêu niềm hạnh phúc, lo toan, song người con gái vẫn không quên cha mẹ mình, vẫn dành thì giờ để làm những chiếc bánh “ít” thơm thảo chờ ngày hồi dâu mang về làm quà cho bố mẹ. Nghĩa cử ấy thật không có gì bằng! Và những cách làm nên tình bánh Để làm được chiếc bánh ít, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, dụng khá nhiều công sức, sự dẻo dai, bền bỉ và khéo léo. Đầu tiên là phải chọn nếp để xay nếp dùng làm bánh ít phải là nếp mới, thơm, độ dẻo vừa rồi vo kỹ, ngâm với nước vài giờ, sau đó mới xay nhuyễn. Nếu xay bằng cối xay thủ công, phải đăng cho ráo nước để được một khối bột dẻo. Để có màu xanh đen và hương vị thơm chát cho bánh, người ta hái lá gai non Cây lá gai thường mọc sẵn ở các hàng rào quanh nhà, rửa sạch rồi luộc chín, vắt khô, sau đó trộn với bột dẻo đem đi giã. Đây là công đoạn dụng khá nhiều sức. Vì nếu giã chưa nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo cảm giác không ngon. Tiếp đến là công đoạn làm nhân “nhưng” bánh. Nhưng bánh ít lá gai bao gồm đậu xanh, đường, dừa, có chút quế và bột vani cho thơm. Đậu xanh đem xay vỡ đôi rồi ngâm và đãi cho sạch vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa được bào ra thành sợi, bỏ vào chảo gang xào chung với đường một lúc cho đến độ chín tới mới trộn tiếp đậu xanh. Xào nhưng trên bếp lửa liu riu cho đến khi nào đường chín tới, nhưng có màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa. Làm bánh ít không khó, nhưng đòi hỏi phải tỉ mỉ. Sau khi đã xào nhưng xong, ngắt một miếng bột nếp tẻ thành bánh mỏng hình tròn trên lòng bàn tay, rồi vốc một nhúm nhưng bỏ vào giữa, túm bốn bên lại cho khít mối, sau đó vo tròn trong lòng bàn tay. Lúc này bột nếp đã bọc toàn bộ nhưng bánh thành một khối tròn. Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút dầu phộng, xoa đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mới gói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyến rũ, huyền bí. Ngoài bánh ít lá gai, có một số nơi làm bánh ít thường bằng bột nếp, màu trắng, có nhưng đậu xanh, nhân dừa đường hoặc nhân tôm, thịt; có loại gói lá chuối, có loại để trần; Cũng có loại làm bằng bột khoai mì, bột củ dong... và đều làm chín bằng phương pháp hấp như trên, xong người An Nhơn, Bình Định thì chỉ làm bánh ít lá gai nhân dừa hoặc nhân đậu xanh gói lá chuối rồi mới đem đi hấp. Ở hầu hết các làng quê Bình Định, đám giỗ nào cũng có bánh ít lá gai. Bánh cúng xong được dọn lên mâm cỗ làm món quà tráng miệng và làm quà bánh cho người ở nhà. Đây cũng là nét khác biệt trong văn hoá ẩm thực và văn hoá ứng xử của người Bình Định. Ngày nay, dù có nhiều loại bánh hiện đại, ngon, rẻ và hấp dẫn hơn nhiều, xong người Bình Định vẫn không bỏ nghề làm bánh ít lá gai. Nếu không làm để bán được thì cũng làm để cúng giỗ và làm quà cho lễ hồi dâu. Họ truyền nghề này cho thế hệ con cái, nhất là con gái, như một thứ bảo bối gia truyền, một nét đẹp văn hóa.
Dưới đây là các mẫu bài văn Hãy giới thiệu về một món ăn đặc sản quê hương em chương trình ngữ văn CTST lớp 7 ngắn gọn nhất, mời các em học sinh cùng tham khảo. Dàn ý Hãy giới thiệu về một món ăn đặc sản quê hương em I. MỞ BÀI - Giới thiệu đối tượng thuyết minh món ăn canh chua. II. THÂN BÀI 1. Chuẩn bị - Cá lóc có thể thay thế các loại cá khác cá điêu hồng, cá bông lau,.. - Thơm. - Cà chua. - Đậu bắp. - Dọc mùng. - Giá đậu. - Me chua chín. - Rau thơm nấu canh chua gồm hành lá, rau ngổ. - Gia vị hành khô, tỏi, muối, hạt nêm. bột ngọt, đường, ớt bột, tiêu, nước mắm, dầu ăn. 2. Sơ chế - Hành khô, tỏi làm sạch, băm nhuyễn. - Cá lóc làm sạch, thái lát vừa ăn, cứa nhẹ trên mỗi lát đổ cá thấm gia vị. Uớp cá với hành tỏi băm nhuyễn, nước mắm, bột ngọt, dầu ăn. tiêu để riêng khoảng 15 – 20 phút - Thơm, đậu bắp làm sạch, cắt lát xéo dài. - Cà chua bổ cau. - Dọc mùng tước vỏ, cắt mỏng, bóp qua với một chút muối, rửa sạch, chân nhẹ với nước sôi, để ráo nước. - Giá đậu rửa sạch, để riêng. - Rau thơm làm sạch, thái mịn. - Me chua chín ngâm với nước ấm, bỏ hạt. 3. Cách làm - Phi thơm một thìa hành tỏi băm nhuyễn với dầu ăn, cho thêm ớt bột để tạo màu. - Cho cá vào đảo nhẹ rồi cho nước vào nấu canh, cho thêm nước me chua và thơm vào, có thể hầm nước xương riêng để canh thêm ngọt. Đến khi nước sôi. dùng thìa lớn vớt hết bọt phía trên để nước canh được trong. - Nước sôi khoảng 3 phút, cá sắp chín tới, cho cà chua, đậu bắp, dọc mùng. giá đậu vào. - Nêm thêm muối, đường, hạt nêm, bột ngọt sao cho vừa ăn. - Khi thấy món canh đã chín tới, tắt bếp. cho rau thơm và hạt tiêu vào là đã hoàn thành món canh chua cá lóc thơm ngon. 4. Trình bày và thưởng thức - Múc canh ra tô vừa đủ số người ăn. - Trang trí thêm ớt đã được tỉa hoa, cắt thêm vài lát ớt, bỏ hành phi lên trên mặt cho thêm đẹp tô canh. III. KẾT BÀI - Vị trí quan trọng của món ăn trong ẩm thực Việt. - Cảm nhận của em về món canh chua. Hãy giới thiệu về một món ăn đặc sản quê hương em mẫu 1 Món canh chua cá lóc vốn là một món ăn quen thuộc, gắn bó với văn hóa ẩm thực của người Việt Nam. Ở từng địa phương khác nhau thì món canh chua cá lóc lại được chế biến với những cách thức khác nhau, thể hiện được những nét đặc trưng về ẩm thực của từng vùng miền. Khái niệm canh chua cá lóc được sử dụng phổ biến hơn ở khu vực Nam Bộ. Món canh chua cá lóc của người Nam Bộ có hương vị đặc trưng đó là vị chua và vị ngọt. Cái tinh tế của món ăn này là vị chua không quá gắt mà chua dịu, khi ăn mang đến cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng, vị ngọt của canh cũng không quá đậm mà chỉ ngọt nhẹ, hai hương vị này kết hợp với nhau đã tạo nên được nét đặc trưng cho món canh chua cá lóc. Để làm món canh chua cá lóc cũng rất đơn giản trước hết là việc chuẩn bị nguyên liệu. Trước hết không thể thiếu được cá lóc, bên cạnh đó cần chuẩn bị những loại nguyên liệu khác như cà chua, bạc hà, đậu bắp, một quả dứa, giá đỗ, me chua, rau mùi, ớt, sả, tỏi. Những gia vị cho món canh chua cá lóc bao gồm đường, mắm, dầu ăn, bột ngọt, hạt nêm. Để chế biến món canh chua cá lóc thì bước đầu tiên cần làm sạch cá lóc, sau đó ướp qua với các gia vị như muối, ớt, bột ngọt để cho cá ngấm gia vị và bớt mùi tanh. Những loại nguyên liệu như đậu bắp, rau bạc hà thì cần rửa sạch, xắt thành khúc vừa ăn, cà chua xắt theo múi, dứa và ớt xắt lát. Me dầm lấy nước, đối với me chín thì có thể tách vỏ và lấy phần thịt me, loại bỏ hạt. Tiếp đó, cho me nấu với một bát nước để me tan. Ăn kèm với món canh chua cá lóc có món rau sống và giá đỗ, nên nhặt sạch giá đỗ, để ráo nước, những loại rau khác nhặt sạch, ngắt lấy phần non, đối với đậu bắp thì xắt lát, bạc hà tước vỏ… Đặt nước lên bếp, cho nước me vào đun sôi, khi nước sôi cho cá lóc vào nấu chín, sau đó cho thêm dứa, đậu bắp, cà chua, lá bạc hà và tắt bếp. Tùy theo sở thích của mỗi gia đình mà có thể nêm nếm cho món canh chua cá lóc cho phù hợp. Bước cuối cùng là trình bày món ăn. Canh chua cá lóc cho ra bát, để cho món ăn đúng vị và được trang trí đẹp mắt hơn thì có thể rắc lên trên món ăn rau mùi, ớt xắt lát và tỏi phi lên bên trên. Ăn kèm với món canh chua cá lóc là bún hoặc cơm, tùy theo khẩu phần ăn của từng người mà có sự lựa chọn khác nhau. Món canh chua cá lóc rất thích hợp ăn trong những ngày hè nắng nóng, vị chua dịu của cạnh giúp bạn xua đi cái nóng, mang đến cảm giác ngon miệng cho bữa cơm gia đình. Món canh chua cá lóc khi ăn cùng cơm trắng và món thịt kho nước dừa hay cá kho sẽ mang đến cảm giác vô cùng đặc biệt. Cách thức làm món canh chua cá lóc rất đơn giản, vì vậy mà ai cũng có thể tham khảo và nấu cho gia đình một món canh chua cá lóc đúng vị. trong những ngày hè,món canh chua cá lóc không chỉ xua đi cái nóng mà còn gắn kết tình cảm của những người thân trong bữa ăn gia đình. Món canh chua cá lóc là món ăn dân tộc phổ biến có ở mọi vùng miền, tuy nhiên, đặc trưng văn hóa ẩm thực ở các vùng có sự khác nhau nên cách nấu món canh chua cá lóc cũng khác nhau. Đây là món ăn dân giã nhưng lại mang đến cho bạn một cảm giác đặc biệt, hãy cùng gia đình thưởng thức món ăn thơm ngon này nhé Hãy giới thiệu về một món ăn đặc sản quê hương em mẫu 2 Vốn là mảnh đất ngàn năm văn hiến, Hà Nội đã hình thành cho mình một nét văn hóa ẩm thực rất riêng. Sau những ngày Tết bộn bề với thịt mỡ, bánh chưng... Người Hà Nội lại làm những bữa bún thang thanh đạm mà không kém phần hấp dẫn. Bún thang ra đời từ khi nào không ai rõ. Chỉ biết rằng hình ảnh bát bún thang từ lâu đã gắn bó với hình ảnh những cô gái của Hà Nội băm sáu phố phường duyên dáng, khéo léo. Để làm được món bún thang phải chuẩn bị nguyên liệu khá cầu kỳ bún, thịt gà, trứng gà, tôm nõn, nem chạo, xương lợn, rau thơm. Việc lựa chọn và chế biến các nguyên liệu ấy cũng rất tinh tế. Bún phải là thứ bún sợi nhỏ, trắng trong, không có mùi chua. Thịt gà luộc chín xé sợi nhỏ. Trứng gà lựa lấy lòng đỏ, tráng những lớp mỏng và khô rồi cuộn lại thái thành những sợi nhỏ. Với tôm nõn ta phải ngâm một lát, để ráo nước rồi giã bông. Rau thơm rửa sạch, thái nhỏ, riêng với nem chạo thì ta để nguyên. Xương lợn là nguyên liệu dùng để nấu nước dùng vì vậy ta nên chọn xương ống, vừa rẻ vừa ngọt nước. Ta rửa sạch xương, chặt đôi từng khúc cho vào luộc sơ qua rồi rửa sạch. Xương sau khi rửa mới có thể nấu làm nước dùng. Khi nấu, ta cho đầy đủ gia vị, nếm vừa miệng là được. Ban đầu để lửa to, sau khi sôi để lửa nhỏ cho xương nhanh nhừ. Sau khi đã chế biến xong các nguyên liệu, ta chuẩn bị cho bữa ăn. Lấy một bát to, ta đặt vào đó lần lượt bún, thịt gà xé sợi, trứng gà thái sợi, tôm bông, nem chạo, rau thơm rồi cho nước dùng vào. Ta sẽ có bát bún thang với màu trắng của bún, màu trắng ngà của thịt gà, màu vàng của trứng, màu hồng của tôm bông, màu nâu của nem chạo, màu xanh của rau thơm. Đặc biệt, sự trong veo của nước dùng sẽ làm nổi lên những màu sắc hấp dẫn của bát bún. Hương vị của bún thang rất thanh đạm khác hẳn cái béo ngậy của thịt mỡ hay đồ nếp. Bún thang thường được dùng sau những ngày Tết ồn ào hay trong những ngày hè cần một món ăn nhẹ nhàng, mát dịu. Bún thang cùng với phở, bánh tôm...đã trở thành đặc trưng của ẩm thực Hà Nội. Bát bún thang ẩn chứa trong đó sự khéo léo, tinh tế, tỉ mỉ của những “nghệ nhân” ẩm thực đất Hà thành. Và vì thế, bún thang đã “để thương để nhớ” cho tâm hồn bao người con đất Kinh kỳ cũng như những du khách may mắn trong đời có lần được đến với Thủ đô. ►►CLICK NGAY vào nút TẢI VỀ dưới đây để download Văn mẫu Hãy giới thiệu về một món ăn đặc sản quê hương em - CTST file PDF hoàn toàn miễn phí.
Kể về một món ăn truyền thống lớp 7Văn mẫu lớp 7 Biểu cảm về một món ăn truyền thống gồm nhiều bài văn mẫu, dàn bài hay giúp các em học sinh và phụ huynh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham cảm về bánh chưng ngắn gọnMỗi khi Tết đến, bánh chưng luôn là một món ăn truyền thống không thể thiếu được của mọi gia đình Việt bánh chưng là một món bánh có từ lâu đời và mang trong mình những ý nghĩa vô cùng to lớn. Từ trong truyền thuyết Bánh chưng, bánh giày mà người ta vẫn kể đi kể lại, giá trị của món bánh chưng càng thêm sáng tỏ. Đó là món bánh thể hiện được sự trân trọng của chúng ta với người nông dân đã chân lấm tay bùn cả năm để tạo nên hạt gạo quý. Hơn hết, là thể hiện sự trân trọng với sự hòa hợp, đoàn kết của núi sông, của con người với nhau. Đoàn kết là sức bánh chưng được gói bằng lá dong, hoặc lá chuối tùy vùng miền. Bên trong là nếp với phần nhân đỗ xanh, thịt lợn. Chiếc bánh đem đi luộc thật kĩ, sao cho bánh chín mềm, thơm dẻo. Cắn một miếng thấy hương vị của cả đất trời hòa quyện trong đó. Còn gì tuyệt hơn, vào ngày Tết lạnh lẽo, được quây quần cùng gia đình ăn miếng bánh chưng nóng, thêm vài miếng hành kiệu muối chua. Cái cảm giác hạnh phúc ấy, có lẽ, nếu thiếu đi bánh chưng xanh thì chẳng thể nào trọn vẹn chưng đến nay không chỉ là một món ăn truyền thống bình thường, mà đã trở thành một thứ gia vị không thể thiếu của ngày Tết. Cùng với cành đào, nhành mai, hạt dưa, mứt gừng, chính bánh chưng đã, đang, và sẽ mãi là biểu tượng của ngày Tết Nguyên Đán nước Nam cảm về một món ăn truyền thống ngắn gọnQuê hương tôi là mảnh đất Quảng Bình, với món ăn truyền thống nổi tiếng bao đời nay bánh bột là một loại bánh xuất hiện ở các dịp lễ, Tết quan trọng của người dân quê tôi. Không chỉ vậy, nó còn trở thành một thức quà ngon để người ta mời nhau trong những cuộc gặp gỡ hay dùng làm quà biếu tặng. Còn gì thân quý hơn những chiếc bánh bột lọc thơm dẻo, với phần nhân ngon lành được gói ghém trong tấm lá chuối xanh. Ẩn trong chiếc bánh nhỏ ấy, là biết bao tâm tư, tình cảm và sự khéo léo của người làm vỏ bánh, người dân quê tôi vẫn dùng bột năng để nhồi. Thêm ít nước sôi rồi dùng sức khỏe và sự dẻo dai của bàn tay để nhồi bột đến khi vừa ý mới thôi. Sau đó chia bột thành từng miếng nhỏ để nặn vỏ bánh lớn chừng lòng bàn tay. Phần nhân thì đầy đủ gồm có tôm, thịt, mộc nhĩ, măng chua và ít rau thơm. Nhưng nếu hôm nào thiếu đi ít tôm hay măng chua thì bánh vẫn ngon lắm. Khó nhất và đòi hỏi sự kiên nhẫn nhất là khi nặn bánh. Ta phải cho từng chút nhân vào vỏ rồi nắn lại phần vỏ sao cho đẹp, đều mà không bị hở nhân. Để làm được một rổ bánh là cả một quá trình của người đầu nay, ngày càng có thêm nhiều món quà bánh thơm ngon với ngoại hình bắt mắt. Nhưng món bánh bột lọc truyền thống vẫn sẽ mãi gắn liền với mảnh đất Quảng Bình đầy nắng và gió của cảm về một món ăn truyền thống mẫu 1Đối với mọi người, hồn quê có thể là cây đa, bến nước, mái đình,có thể là bếp rơm bập bùng buổi sáng, tiếng gà gáy, ve kêu, đôi khi lại là cánh đồng lúa vàng. Nhưng với tôi, thì hồn quê là mùi hương cá kho ngày tếtCòn nhớ hồi học sinh, cứ đến những ngày 27, 28 tháng chạp tết, tôi bước chân xuống xe ô tô, nhìn ngắm làng quê mình rồi hít 1 hơi thật sâu để tận hưởng hương vị quê, trong đó nồng nàn nhất là mùi hương cá kho ngày quê tôi vốn có truyền thống kho cá ngày tết từ rất lâu rồi, nhưng những năm gần đây, khi được báo chí, truyền hình biết đến, món cá kho như một dòng văn hóa âm thầm bỗng nhiên bùng lên với tính chất thương mại thức cổ truyền vẫn vậy, người kho vẫn là người ở làng, gia vị không có gì thay đổi, chỉ khác một điều là cứ trong thời gian tháng trước tết, làng tôi nhiều ô tô hơn, họ về lấy đặt mua cá với sự trân trọng đặc biệt cho một món đặc sản cổ truyền. Nhiều người chỉ đọc thông tin trên mạng Internet nhưng cũng đánh xe ô tô cho cả gia đình về mua cá và thăm quê hương làng Vũ ĐạiBố mẹ tôi là một trong những người đi đầu trong việc đưa món cá kho cổ truyền ra ngoài thị trường với thương hiệu Cá Kho Nhân Hậu – Trần Luận. Nhà tôi bán từ năm 1998, lúc đầu chỉ là bán cho một vài người quen đặt hàng để biếu sếp, nhưng từ đó đến nay, số lượng đặt hàng dường như lớn lên theo cấp số nhân, đặc biệt là vào dịp tết. ….. Cũng phải thôi, món ăn mà 10 người ăn cả 10 đều khen ngon thì ai mà chả muốn một lần được thưởng thức, không những thế, đây còn là món quà vô cùng ý nghĩa cho người thì không biết kho cá , nhưng năm nào cũng muốn được nghỉ tết sớm để phụ giúp bố mẹ, kho được một nồi cá quả thực không đơn giản, đầu tiên bạn phải chọn nồi, nồi phải không bị sứt mẻ, đất nung nồi phải là đất Nghệ an hoặc Thanh Hóa, trước khi kho phải bỏ 1 nắm gạo vào đun cháo cho niêu được bền. Gia vị phải rửa thật sạch sẽ, gừng riềng phải giã tơi như ruốc, nhà tôi còn có cả 1 vườn trồng chanh , chấp phục vụ cho việc kho cá……. Cá chọn kho phải là cá trắm đen nặng từ 3 – 5 kg, kho phải bỏ đầu và đuôi cứ đến đợt tết là cả khu xóm tôi được ăn đầu cá, ruột cá miễn phí, người kho phải túc trực 24 tiếng, không được đun quá to cũng không được đun quá nhỏ. Sau khi kho xong phải để quạt nguội hẳn rồi mới đóng gói cho khách hàng. Vì thế nên khách hàng đặt cá nhà tôi phải đặt trước ít nhất 2 ngàyThật là tuyệt nếu được thưởng thức cái hồn quê tôi vào dịp tết phải không? Về đến đầu làng, các bạn sẽ ngửi ngay thấy mùi hương cá kho, nghe thấy tiếng giã gừng giềng vì dùng máy xay không chuẩn đâu nhé, và sẽ thấy những xe chở cá đi nhộn nhịp trên đường….. Một giá trị cần được chúng ta biết cảm về một món ăn truyền thống mẫu 2Mỗi con người đều mang trong mình tình yêu quê hương tha thiết. Trong tình yêu ấy có cả niềm tự hào về những sản vật nổi tiếng gắn bó lâu đời với truyền thống quê nhà. Mỗi người con Hải Dương khi đi xa chẳng bao giờ quên được hương vị đậm đà của chiếc bánh đậu đậu xanh là đặc sản nổi tiếng của Hải Dương. Du khách đi qua Hải Dương đều không quên mua cho mình vài hộp bánh đậu xanh về làm quà cho gia đình, bạn bồ. Nói đến bánh đậu xanh, người ta thường nhắc đến những thương hiệu nổi tiếng như Bảo Hiên, Nguyên Hương, Hòa An... Đó là những hãng sản xuất lớn, có lịch sử lâu đời với bí quyết được trân trọng, giữ gìn từ đời này sang đời khác. Từ những hạt đậu xanh nguyên chất, qua bàn tay khéo léo, công phu của người thợ, những chiếc bánh đậu xanh ra đời như gói trọn trong mình cả tình yêu và hương sắc quê hương. Màu vàng nhạt như nắng, hương thơm dịu dàng, vị bùi của đậu xanh, ngọt ngào của đường kính, béo ngậy của mỡ phần... làm cho bánh đậu xanh quyến rũ người thưởng thức bởi cả sắc, hương, vị. Không chỉ có vậy, các nhà sản xuất còn cho ra đời những mẫu mã, bao bì đẹp, bắt bánh đậu xanh của quê hương Hải Dương có mặt trên bàn thờ tổ tiên mỗi dịp lễ Tết, trong những bữa tiệc trang trọng hay trên mâm cơm giản đơn hàng ngày. Nó theo chân người ra các tỉnh bạn, vượt trùng dương đến những vùng đất xa xôi. Và ở bất cứ phương trời nào, bắt gặp đâu đó bóng dáng những hộp bánh đậu xanh, mỗi người dân Hải Dương lại trào lên trong lòng mình một nỗi nhớ quê hương da Dương vốn nổi tiếng là mảnh đất "Địa Linh Nhân Kiệt". Và bánh đậu xanh còn góp phần hoàn hảo thêm hình ảnh của Hải Dương bằng vẻ đẹp của văn hóa ẩm thực Việt cảm về bánh chưngTrong những ngày xuân đến rộn ràng, lòng người náo nức mừng dịp Tết Nguyên Đán, chúng ta lại nghĩ đến những món ăn đậm đà bản sắc dân tộc. Và bánh chưng là một món ăn không thể thiếu trong số chưng từ lâu đã là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Tương truyền rằng vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, nhà vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu xuân, vua Hùng họp các hoàng tử lại và yêu cầu các hoàng tử đêm dâng lên vua cha thứ mà họ cho là quí nhất để cúng lên bàn thờ tổ tiên nhân ngày đầu xuân. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hi vọng mình được vua cha truyền ngôi. Trong khi đó, người con trai thứ mười tám của Hùng Vương là Lang Liêu có tính tình hiền hậu, sống gần gũi với người nông dân lao động nghèo khổ nên ông lo lắng không có gì quí giá để dâng lên vua cha. Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy có vị thần đến chỉ bảo cho cách làm một loại bánh từ lúa gạo và những thức có sẵn gần gũi với đời sống hàng ngày. Tỉnh dậy, ông vô cùng mừng rỡ làm theo cách chỉ dạy của thần. Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ, đủ cả sơn hào hải vị, nem công chả phượng. Hoàng tử Lang Liêu thì chỉ có hai loại bánh được làm theo lời mộng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ bèn hỏi, thì được Lang Liêu đem chuyện thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của bánh. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn đặt tên cho bánh là bánh chưng và bánh dày rồi truyền ngôi vua lại cho Lang thức làm bánh rất đơn giản. Cũng theo truyền thuyết kể lại thì cách làm bánh ngày nay không khác so với lời báo mộng của thần cho Lang Liêu cũng như cách làm bánh của vị lang nặng tình với nhân dân là mấy. Nguyên liệu làm bánh bao gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong. Những nguyên liệu ấy vừa dễ kiếm lại vừa giàu ý nghĩa vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Gạo nếp thường dùng là gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, đều và thơm dẻo hơn các vụ khác. Cầu kì hơn còn có gia đình phải chọn bằng được nếp cái hoa vàng hay nếp nương. Đỗ xanh thường được lựa chọn công phu. Sau thu hoạch đỗ cần phơi nắng đều thật khô, sàng sẩy hết rác, bụi, hạt lép, phân loại hạt rồi đóng vào hũ, lọ bằng sành là tốt nhất. Thịt lợn nên chọn lợn ỉn được nuôi hoàn toàn bằng phương pháp thủ công nuôi chuồng hoặc nuôi thả, thức ăn bằng cám rau tự nhiên không dùng thuốc tăng trọng hoặc thức ăn gia súc. Khi chọn thịt thì lấy thịt ba chỉ ba dọi vừa có mỡ vừa có nạc khiến nhân bánh có vị béo đậm đà, không khô bã. Ngoài ra còn cần các gia vị như hạt tiêu, hành củ dùng để ướp thịt làm nhân; muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu. Lá để gói bánh thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Tuy nhiên, tùy theo địa phương, dân tộc, điều kiện và hoàn cảnh, lá gói bánh có thể là lá chít hoặc vừa là lá dong vừa là lá chít. Lạt buộc bánh chưng thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm nước muối hay hấp cho mềm trước khi khi làm bánh cần có sự chuẩn bị sơ chế nguyên liệu kĩ lưỡng. Lá dong phải rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Tiếp đó dùng dao bài cắt lột bỏ bớt cuống dọc sống lưng lá để lá bớt cứng. Gạo nếp nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 12-14 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối. Đỗ xanh làm dập vỡ thành các mảnh nhỏ, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Thịt lợn đem rửa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ cm đến 3 cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ cho thịt làm bánh, trước hết phải xếp lạt giang một cách hợp lí rồi trải lá dong, lá chít trước. Sau đó mới trải một lớp gạo rồi đến một lớp đỗ, đặt thịt vào giữa làm nhân rồi lại trải tiếp một lớp đỗ, một lớp gạo. Sau khi quấn lá chặt lại thì dùng lạt giang buộc chắc quan niệm phổ biến hiện nay, cùng với bánh giầy, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa bánh chưng màu xanh lá cây, hình vuông tượng trưng cho Đất, bánh dầy tượng trưng cho trời. Tuy nhiên, theo một số học giả nổi tiếng, bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét, đồng thời bánh chưng và bánh giầy tương trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. Bánh tét, thay thế vị trí của bánh chưng vào các dịp Tết ở miền nam, cũng theo những học giả trên là dạng nguyên thủy của bánh thường được làm vào các dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 Âm lịch. Thiếu bánh chưng, bánh dầy ắt không thành cái Tết hoàn chỉnh "Thịt mỡ bánh chưng xanh, dưa hành câu đối đỏ". Hơn thế, gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân loại bánh có lịch sử lâu đời nhất trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt. Sự ra đời và tục lệ làm bánh chưng ngày Tết, ngày giỗ Tổ muốn nhắc nhở con cháu về truyền thông của dân tộc đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước. Theo thời gian, nền văn minh công nghiệp đang dần được hình thành song ý nghĩa và vai trò của bánh chưng thì vẫn còn nguyên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 7 Biểu cảm về một món ăn truyền thống. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 7 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn liệu tham khảoBiểu cảm về món quà quê cốmBiểu cảm về một con vật nuôiBiểu cảm về một mùa trong năm
Hạ Tri Chương là một trong những thi sĩ lớn thời Đường, ông còn là bạn vong niên với Lí Bạch. Ông đã để lại 2o bài thơ, trong đó bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê là một trong số những bài thơ hay nổi tiếng viết về đề tài tình yêu quê hương đất nước. Bài thơ ngắn gọn nhưng đã thể hiện khá rõ tình cảm tha thiết, nỗi lòng của một người con xa quê hương sau bao nhiêu năm mới trở vềKhi đi trẻ, lúc về giàGiọng quê vẫn thế, tóc đà khác con nhìn lạ không chàoHỏi rằng Khách ở chốn n...Đọc tiếp
biểu cảm về món ăn đặc sản quê hương