bat nha ba la mat da tam kinh giang giai

03 - Ma-Ha Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh 04 - Ngũ Uẩn Giai Không 05 - Vậy Thức Uẩn Có Vô Ngã Không? 06 - Phá Chấp Ngã 07 - Phá Chấp Pháp Của Thế Gian 08 - Tứ Diệu Đế 09 - Thất Bồ Đề Hay Thất Giác Chi (Seven factors of enlightenments) 10 - Giới Định Tuệ Lá tía tô giúp giảm mụn, sáng da, chống lão hoá. Ảnh: ST. Dưới đây là những công dụng của tía tô đối với làn da: Chống mụn trứng cá. Trong lá tía tô có chứa chất kháng khuẩn và chống viêm, giúp giảm mẩn đỏ và sưng tấy trên da. Tía tô giúp làm mát, làm dịu vùng da Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng phụng chiếu dịch vào đời Đường, năm 649. Phật thuyết Bát nhã ba la mật đa Tâm kinh, do Tam Tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh dịch năm 700. Giống như bản Huyền Tráng, trừ phần chú, không dịch âm mà ghi bằng chữ Tất Sách - Combo Hành trình kinh doanh trực tuyến + Bán Hàng Quảng Cáo Kiếm Tiền Trên Facebook + Cách Để Đạt 1 Triệu Followcó giá rẻ nữa, giờ chỉ còn 401,760đ. Suy nghĩ thật lâu, đặt hàng thật nhanh và khui hàng thật mau để review cho bạn bè cùng chung vui hén. Kinh. Buổi thuyết giảng hôm nay gồm 3 phần: 1. Giảng Bát nhã tâm kinh. 2. Cách thiền quán. 3. Vấn đáp. Hơn nữa, nói đến Phật pháp, điều quan trọng là chúng ta phải quán sát, phân tích. Đức Phật thuyết rằng những lời Ngài dạy chúng ta phải tìm hiểu, phân tích rõ ràng. Thoạt model cincin yang cocok untuk jari gemuk. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh là một trong những bộ kinh nổi tiếng bậc nhất trong Phật pháp. Trong các bản dịch Kinh này từ tiếng Phạn, thì bản dịch của Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang được dùng phổ biến nhất. Có hai bản giảng giải kinh nầy Bản giảng của Tổ Ấn Quang và Bản giảng giải của Tổ Ngẫu Ích. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Kinh Pháp Diệt Tận. Kinh Lăng Nghiêm. Kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Niệm Phật Ba La Mật. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Cách tụng kinh tại nhà. Cách niệm Phật tại nhà. Kinh Thập Thiện Nghiệp. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Bản Hán Việt Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Bản Việt Dịch Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc. * Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác. Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối. Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Giảng giải Tổ Ấn Quang Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Bát Nhã được cõi này dịch là trí huệ. Ba La Mật Đa cõi này dịch là Đáo Bỉ Ngạn đến bờ kia. Nghĩa là dùng trí huệ quán chiếu, vượt qua biển khổ sanh tử, đến bờ kia Niết Bàn. Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Quán Tự Tại Bồ Tát khi hành sâu xa Bát Nhã Ba La Mật Đa, soi thấy năm uẩn đều không, vượt hết thảy khổ ách. Quán Tự Tại chính là Quán Thế Âm. Ngài Hiền Thủ bảo vị Bồ Tát này có đại trí, đối với cảnh “lý sự vô ngại” đã quán thông đạt, tự tại. Lại nữa, Ngài có lòng đại bi, quán sát căn cơ để đến cứu tự tại vô ngại, nên có tên như vậy. “Hành thâm” có nghĩa là tu luyện thành công đã lâu, chẳng phải là điều kẻ thô tâm hời hợt, vừa mới hiểu biết nông cạn đã ngừng tu tập mà dám mong mỏi. “Ngũ Uẩn” “Ngũ Uẩn” chính là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Chữ Sắc này so với chữ Sắc trong Lục Trần thì phạm vi bao gồm rất rộng, toàn bộ Ngũ Căn và Lục Trần, tổng cộng mười một pháp, đều là Sắc cả. Thọ là lãnh nạp. Tưởng là tư tưởng. Hành là tạo tác. Thức là phân biệt. Thức gọi là Tâm Vương, Thọ, Tưởng, Hành đều là Tâm Sở. Ngài Tông Lặc nói Bồ Tát do soi thấy Ngũ Uẩn không tịch, lìa khổ sanh tử; Lại thương chúng sanh đang mê, điên đảo làm càn Trái đạo lý, nghịch luân thường, tạo Thập Ác, Ngũ Nghịch, đến nỗi hứng chịu các nỗi khổ…Ngài bèn dạy họ dùng trí huệ quán sát hòng được giải thoát. Ngài Hám Sơn nói “Nếu chúng ta biết Ngũ Uẩn vốn là không, Tứ Đại chẳng có thì đâu còn có nghiệp lụy nào trói buộc? Đâu còn nhân ngã, thị phi để tranh cãi? Đâu còn cùng quẫn, thông suốt, được – mất để so đo? Đâu còn giàu sang, nghèo hèn để bận lòng nữa ư?” Đoạn kinh văn nói về mười bốn món Vô Úy trong chương Nhĩ Căn Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm có thể dùng để chú thích đoạn này. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị. Này Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc chính là Không, Không chính là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng giống như vậy. “Sắc Bất Dị Không” Xá Lợi Tử chính là Xá Lợi Phất. Chúng sanh chấp sắc thân là Ngã, khó dẹp trừ nhất, nên nêu Sắc đầu tiên. Ngài Tông Lặc nói “Sắc chính là Tứ Đại huyễn sắc, Không chính là Bát Nhã Chân Không. Chúng sanh mê lầm chân không thành huyễn sắc, như nước đông thành băng. Bồ Tát biết huyễn sắc chính là chân không, như băng tan thành nước. Thể của chúng chẳng khác nên nói bất dị’. Ấy là sắc bất dị không’ nhằm phá Thường Kiến[1]”. Phàm phu chấp sắc thân là thật, lầm lạc mong mỏi nó tồn tại thường hằng, mưu tính sao cho nó tồn tại trăm năm ngàn đời. Chẳng biết thân này niệm niệm đổi dời, như lửa thành tro, dần dần tiêu mất, rốt cuộc thành không. Ngoại đạo đề xướng Kim Đan Giáo[2] muốn dùng cách nuốt nước miếng, vận chuyển hơi thở, lầm lạc cầu kết thành tiên đan[3], xuất hồn. Chẳng biết các chất dịch và hơi thở thuộc về Sắc; Hít ra thở vào thuộc về Thọ; Chú tâm giữ cho hơi thở đi theo đúng kinh mạch thuộc về Tưởng; Nung luyện hỏa hầu thuộc về Hành; Nguyên thần thuộc về Thức. Toàn thể hư vọng làm sao đạt được chân thường? Vì thế, dùng câu “bất dị Không” để cảnh tỉnh. “Không bất dị Sắc” “Không bất dị Sắc” nhằm phá Đoạn Kiến. Ngoại đạo chẳng biết thân do nghiệp mà khởi; Nghiệp từ tâm sanh, luân chuyển tuần hoàn, nhân quả chẳng mất; Bảo xằng “con người chết đi thần hồn cũng phiêu tán, chặt, đốt, xay, giã lấy đâu để thực hiện!” Chẳng biết thân chết nhưng tánh chẳng diệt. Như quả hạt của cỏ cây, tuy nung, nướng, nấu, luộc, hễ tánh của nó là hòa hoãn thì quả hạt dẫu đã nấu nướng là hòa hoãn; Có tánh độc thì vẫn độc, tánh thăng thì vẫn thăng, tánh giáng thì vẫn giáng[4]. Loài vô tình còn như thế, huống hồ con người ư? Nhân quả rành rành chẳng sai. Nếu lại có người bảo “Con người chết rồi sẽ làm người, loài vật chết đi lại làm loài vật. Trời sanh muôn vật nhằm nuôi dưỡng con người; Cho nên sát sanh ăn thịt, những loài vật ngu ngốc như thế làm sao có thể đòi nợ mạng được?”; Thì họ chẳng biết nghiệp có thăng trầm, tánh không sai khác, vốn bình đẳng; Sự lý luân hồi quả thật đáng làm căn cứ! Đến nỗi hạng Nhị Thừa tuy y theo đạo để tu tập, nhưng chẳng thấu đạt “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Ngỡ chúng là có thật nên coi tam giới như lao ngục, tránh né chúng như lánh đồ dơ, chẳng dấy lòng độ sanh, nên nói “Không bất dị Sắc”. Ấy là vì Bát Nhã Chân Không như tấm gương tròn lớn, hết thảy huyễn sắc như ảnh hiện trong gương. Nếu biết “gương chẳng khác ảnh”, sẽ hiểu ý nghĩa “Không bất dị Sắc”. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Giảng giải Lại sợ chúng sanh căn độn, vẫn giữ hai kiến chấp Sắc và Không, nên lại nói trùng điệp dung hội rằng “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Giống như băng chính là nước, nước chính là băng. Biết Sắc chẳng khác Không thì chẳng có thanh, sắc, của cải, lợi lộc để tham; Không có ngũ dục lục trần để luyến mến, nhanh chóng vượt khỏi cảnh giới phàm phu. Đây chính là ý nghĩa của câu “Phú quý phù vân” phú quý như mây nổi trong sách Luận Ngữ và câu “vạn chung hà gia”[5] muôn chung có ích gì trong sách Mạnh Tử. Biết Không chẳng khác Sắc thì chẳng khởi Diệt Định, mà hiện các oai nghi, chẳng động bổn tế, thực hiện sự nghiệp độ sanh, nhanh chóng vượt trỗi ngoại đạo, Nhị Thừa Đây chính là ý nghĩa của câu “Bất kiến nhi chương, bất động nhi biến, vô vi nhi thành, cập vi vật bất nhị, sanh vật bất trắc”. không thấy mà biểu lộ, không động mà biến đổi, không tạo tác mà thành; Chẳng khác gì với vật mà sanh thành muôn vật chẳng thể lường trong sách Trung Dung. Biết Sắc và Không bình đẳng, giống hệt như nhau thì niệm niệm độ sanh, chẳng thấy có chúng sanh để độ; Tâm tâm cầu Phật, chẳng thấy Phật quả để cầu, mà nhanh chóng chứng cùng một cảnh với Phật. * Sắc Uẩn đã như vậy thì quán sát bốn Uẩn kia tương tự. Vì thế nói “Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị”. Thử dùng chuyện hiện thời để làm chứng thì kẻ đắc Thiên Lý Nhãn Từ núi, rừng, tường vách chẳng thể ngăn che được, chẳng phải là “Sắc tức thị Không” đó ư? Kẻ giỏi thuật Thôi Miên thì tâm niệm của người khác, người ấy đều có thể biết rõ, chẳng phải là Không tức Sắc đó ư? Cái thân được chưng diện. Nhưng dùng tia X quang để chiếu thì y phục lẫn cái thân xác thịt đều như mây tiêu, khói tan, chẳng phải là Sắc tức Không đó ư? Mắt huệ quán chúng sanh, cố nhiên là như vậy! Dùng kính hiển vi để nhìn vào một giọt nước hay quan sát một kẽ hở trên không trung thì những loài động vật bé tí lăng xăng tụ họp chen chúc trong ấy; Đấy chẳng phải là “Không tức là Sắc” hay sao? Chư thiên nhìn chúng ta cũng giống như vậy đó! Thân chư thiên cao trăm ngàn trượng cho đến cả trăm ngàn do-tuần. Cớ sao người đời cứ phải ở trong huyễn cảnh mà tranh giành man dại như thế? Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Này Xá Lợi Tử! Tướng Không của các pháp ấy chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng tăng, chẳng giảm. “Chư pháp” chính là Ngũ Uẩn. “Không” là nói về tướng, muốn cho con người hiểu rõ nên cưỡng chỉ tướng trạng. Nghĩa là Chân Không tuy chính là Sắc, Thọ nhưng Sắc tùy duyên khởi, Chân Không chẳng sanh; Sắc tùy duyên diệt, Chân Không chẳng diệt. Lại nữa, thuận theo dòng mà chẳng nhiễm, ra khỏi chướng chẳng tịnh; Chướng hết chẳng giảm, đức viên mãn chẳng tăng. Đấy gọi là “một pháp chẳng lập” vậy. Thị cố Không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức, vô Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, vô Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, vô Nhãn Giới, nãi chí Vô Ý Thức Giới. Vì thế, trong Không chẳng có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chẳng có Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, chẳng có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, chẳng có Nhãn Giới, cho đến chẳng có Ý Thức Giới. Đoạn này lần lượt đem cái Không ứng với những điều còn lại giống như cái Không [đã nói] trong phần Ngũ Uẩn ở trên. Tức là Lục Căn không, Lục Trần không cho đến Thập Bát Giới không. Thập Bát Giới là sáu căn hợp với sáu trần, thêm vào sáu Thức để nói. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Giảng giải Kinh Lăng Nghiêm có nói như người chẳng nháy mắt. Mắt nhìn trừng trừng, phát mệt, sẽ thấy hoa đốm bay tán loạn trên hư không; Và lại có hết thảy những tướng cuồng loạn chẳng thật. Hãy nên biết Sắc Ấm cũng giống như thế! Như người chà hai bàn tay vào nhau, liền hư vọng sanh ra những tướng rít, trơn, lạnh, nóng. Hãy nên biết Thọ Ấm cũng giống như thế. Như người nói đến quả mơ chua, trong miệng ứa nước; Nghĩ đến trèo lên vách đá cheo leo, lòng bàn chân nhơm nhớp mồ hôi; Hãy nên biết Tưởng Ấm cũng giống như vậy. Ví như dòng nước chảy xiết, từng con sóng nối tiếp nhau, lớp trước lớp sau chẳng trái vượt; Hãy nên biết Hành Ấm cũng giống như thế Ví như niệm niệm lưu chuyển chẳng ngơi. Như người lấy cái bình Tần Già[6], nút hai lỗ lại, không gian bị chứa đầy trong đó, đem đi xa ngàn dặm, bù đắp cho nước khác; Hãy nên biết Thức Ấm cũng giống như vậy.Ví như thức thần theo nghiệp thọ sanh trong tam giới. Tiếp đó, Lục Nhập, Nhị Thập Xứ, Thập Bát Giới, mỗi mỗi đều nói rõ nó là hư vọng, lời văn rườm rà chẳng thể chép trọn. * Lại nói Lìa tối, lìa sáng, chẳng có bản thể của cái Thấy. Lìa động, lìa tĩnh, vốn không có tánh chất Nghe. Không thông, không tắc, tánh Ngửi chẳng sanh. Chẳng biến đổi, chẳng điềm nhiên, sự nếm không cách nào xuất hiện được. Chẳng lìa, chẳng hợp, giác xúc sự nhận biết do đụng chạm vốn không. Chẳng diệt, chẳng sanh thì sự hiểu rõ sẽ dựa vào đâu [mà có]? Điều này có nghĩa là đã lìa khỏi Trần thì Căn và Thức sẽ chẳng có. Lại nói Chúng sanh từ vô thỉ đến nay chạy theo các thứ sắc, thanh, theo ý niệm lưu chuyển, chưa từng khai ngộ tánh “tịnh, diệu, thường”. Nếu bỏ sanh diệt, giữ lấy chân thường thì thường quang hiện tiền, căn, trần, thức tâm sẽ ngay lập tức tiêu mất “Chân thường” chính là Chân Không bất sanh bất diệt được nói trong kinh này. “Thường quang hiện tiền” chính là trí huệ quán chiếu. * Đoạn này chỉ nói tiếp ý “Sắc tức thị Không”, nên biết rằng Nếu hiểu “Không tức là Sắc” thì chữ Vô có thể thay bằng chữ Tức, nghĩa là “Không trung tức Sắc, tức Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tức Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý” Theo kinh Bi Hoa, ngài Quán Âm trong suốt bảy năm không có dục tưởng, không có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc tưởng, liền lấy sự trang nghiêm của vi trần số cõi Phật trong mười phương tạo thành sự trang nghiêm cho cõi Phật của chính mình. Người học có thể rỗng không sự hôi nhơ nơi sáu căn này thì sẽ liền có thể đắc Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Thần Túc Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp phụ. Có thể rỗng không sự xen tạp nhơ bẩn nơi sáu Trần thì sẽ đắc Sắc “đất vàng, cát vàng, bảy báu trang nghiêm” và Thanh “tiếng linh báu, lưới báu xinh đẹp vượt trỗi nhạc trời”, Hương, Vị, Xúc, Pháp mỗi mỗi đều tuyệt diệu chẳng thể diễn tả được, chỉ là từ trong một chữ Tín mà chuyển dời vậy. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết. Đây chính là rỗng không mười hai nhân duyên. Vô Minh là một niệm vọng động của chúng ta từ vô thỉ đến nay khiến cho sự sáng suốt nơi tánh bị mê tối nên gọi là Vô Minh. Vô Minh duyên Hành Nên hiểu Duyên là Khởi dấy lên, ý nói tạo tác các nghiệp Hai chi này tức Vô Minh và Hành chính là cái nhân đã tạo trong đời quá khứ. Hành duyên Thức, nghĩa là nghiệp lực lôi kéo tám thức đầu thai. Thức duyên Danh Sắc, nghĩa là hễ vào trong thai thì Ngũ Ấm đều đủ, một thức thuộc về Sắc, bốn thức kia thuộc về Danh. Danh Sắc duyên Lục Nhập, nghĩa là sáu căn đã thành, đầy đủ thể chất để vào đời. Lục Nhập duyên Xúc, nghĩa là sau khi ra khỏi thai, sáu căn tiếp xúc sáu trần. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Giảng giải Xúc duyên Thọ nghĩa là tiếp nhận những sự tốt xấu trong thế gian Năm chi này chính là Quả phải hứng chịu trong đời hiện tại. Thọ duyên Ái, nghĩa là tham nhiễm những chuyện như Ngũ Dục Ái duyên Thủ, nghĩa là từ nơi cảnh dấy tâm mong giữ lấy. Thủ duyên Hữu nghĩa đã tạo nhân, ắt sẽ lại chuốc lấy quả Ba chi này chính là nhân trong đời hiện tại. Hữu duyên Sanh, nghĩa là gánh chịu cái thân trong đời vị lai. Sanh duyên Lão Tử, nghĩa là trong vị lai lại quay về nơi biến đổi, tiêu diệt Hai chi này là cái quả phải chịu trong đời vị lai. Mười hai nhân duyên này bao trùm nhân quả ba đời, luân chuyển không ngớt, gọi là Lưu Chuyển Môn. Tu Giới – Định – Huệ Học, cầu cho Vô Minh hết, Hành hết, Thức hết, cho đến lão tử chấm dứt thì gọi là Hoàn Diệt Môn. Nếu pháp thật sự là có thì chẳng thể diệt được, [do pháp] có sanh có diệt nên nó chính là hư vọng, hễ mê thì đi theo nó nên có nỗi khổ đọa lạc tam đồ, hễ ngộ thì sẽ chuyển nó, nên có niềm vui vượt lên cõi Phật. Nghiệp lực to lớn nhưng tâm lực càng to lớn hơn nữa! Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo Đấy là rỗng không Tứ Đế. Khổ chính là quả khổ trong thế gian. Tập chính là cái nhân của sự khổ trong thế gian. Diệt chính là quả vui của sự xuất thế. Đạo chính là cái nhân của sự vui xuất thế. [Tứ Đế được nói ở đây] có cùng một ý nghĩa một đằng Lưu Chuyển, một đằng Hoàn Diệt như trong phần [nói về Thập Nhị Nhân Duyên] trên đây. Hễ hiểu phần trước thì sẽ ngộ được phần này. Vô trí diệc vô đắc. Không trí mà cũng không đắc. Hết thảy đã là không thì không có trí huệ để chiếu, mà cũng không có Bồ Đề để đắc. Đấy chính là cảnh giới của Pháp Thân. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa Cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Do không có gì để được nên Bồ Tát nương theo Bát Nhã Ba La Mật tâm không vướng mắc. Do không vướng mắc nên không có sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo Niết Bàn. Phần này tiếp nối ý của phần trên nhằm nói “không đắc mà đắc, đấy mới là chân đắc”. Bồ Đề Tát Đỏa dịch là Giác Hữu Tình, tức là Bồ Tát. Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, trong tâm thuần là trí huệ, cho nên không vướng mắc, sợ hãi, chẳng khởi mộng tưởng điên đảo nơi cảnh, có nghĩa là tâm diệt thì mọi pháp diệt. Niết Bàn dịch là Viên Tịch, không đức nào chẳng trọn là Viên, không chướng nào chẳng tận là Tịch, tức là Tịch Quang Tịnh Độ, là cảnh giới tự thọ dụng của Phật. “Cứu cánh Niết Bàn” nghĩa là nhập Vô Dư Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát Nhã Ba La Mật đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ba đời chư Phật do nương theo Bát Nhã Ba La Mật nên đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. “Tam thế” là quá khứ, hiện tại, vị lai. A là Vô, Nậu Đa La là Thượng, Tam Miệu là Chánh Đẳng, Tam Bồ Đề là Chánh Giác. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là tên của Phật Quả. Tam thế chư Phật đều từ đây mà tu chứng, vì thế Bát Nhã là mẹ của chư Phật. Cố tri Bát Nhã Ba La Mật thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa Chú. Cho nên biết Bát Nhã Ba La Mật là đại thần chú, là đại minh chú, là chú không gì hơn, là chú không gì có thể sánh bằng, có thể trừ hết thảy khổ, chân thật không dối. Vì thế, nói chú Bát Nhã Ba La Mật. Đoạn này ca tụng công đức của Bát Nhã. Do có đại thần lực nên gọi là “đại thần chú”. Do có đại quang minh nên gọi là “đại minh chú”. Các pháp chẳng thể nào vượt trội Bát Nhã nên gọi là “vô thượng chú”. Các pháp không thể nào sánh bằng nên gọi là “vô đẳng đẳng chú”. Trên đây là phần Hiển Thuyết nhằm làm cho hành giả sanh huệ, diệt phiền não chướng. Tiếp theo là phần Mật Thuyết, khiến cho người tụng được phước, diệc ác nghiệp chướng. Tức thuyết chú viết “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”. “Chú” là lời bí mật của Phật, Bồ Tát, chỉ nên thành kính tụng trì, chắc chắn sẽ tiêu tai, được phước, không cần phải giải thích. Nếu cứ cưỡng giải thích, sẽ đâm ra chẳng đạt hiệu nghiệm. Tâm Kinh văn từ tuy giản lược, lý cực rộng sâu, giải thích nông cạn chỉ nhằm lợi ích kẻ sơ cơ. Tác phẩm Thích Yếu thích hợp ba căn, không còn gì khéo hơn. Vì thế, tôi sao chép vào đây để lưu truyền rộng rãi. Thích Ấn Quang ghi. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh giảng giải Tổ Ngẫu Ích Kinh này chỉ thẳng một niệm tâm nhỏ nhoi hiện tiền của chúng ta chính là Tam Bát Nhã[7]. Ba thứ “tâm, Phật, chúng sanh” không sai biệt. Nhưng chúng sanh pháp quá rộng, Phật pháp quá cao; Đối với kẻ sơ tâm chỉ có quán tâm là dễ. Vì thế, đại bộ kinh Đại Bát Nhã gồm hơn sáu trăm quyển đã dựa theo Phật pháp và chúng sanh pháp để trình bày Bát Nhã cặn kẽ; Còn nay kinh này chỉ dựa trực tiếp trên tâm pháp để hiển thị Bát Nhã. Tuy kinh Đại Bát Nhã giảng rộng về Phật pháp và chúng sanh pháp. Nhưng những điều ấy chưa bao giờ chẳng phải là tâm pháp. Tuy kinh này giảng thẳng vào tâm pháp, vẫn chưa hề chẳng trọn đủ Phật pháp và chúng sanh pháp; Vì thế được gọi là “cả ba không sai biệt”, do một niệm tâm hiện tiền nhỏ nhoi của chúng ta rỗng sáng, thấu suốt, thường hiểu biết rành rành. Chẳng ở các nơi “trong, ngoài, trung gian”, mà cũng chẳng vướng nơi hình tích “quá khứ, hiện tại, vị lai”. Đấy chính là Quán Chiếu Bát Nhã. Dùng một tâm niệm nhỏ nhoi hiện tiền của chúng ta để hiện rành rành từ Căn, Thân, Khí Giới[8]. Cho đến các cõi nước giả hay thật trong mười pháp giới, bình đẳng ấn trì; Không trước, không sau, đồng thời lập tức đầy đủ, đấy chính là Văn Tự Bát Nhã. Ấy là vì núi, sông, đại địa, sáng, tối, Sắc, Không Tánh của hết thảy các cảnh giới, không gì chẳng phải là văn tự, chứ không phải chỉ có giấy, mực, lời nói mới là văn tự! Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Giảng giải Do một tâm niệm nhỏ nhoi hiện tiền của chúng ta, tánh của tất cả tri giác và tánh của cảnh giới không chia, không tách, không Năng, không Sở; Không đúng, không sai, đều chỉ là một pháp giới thể. Đấy chính là Thật Tướng Bát Nhã. Thật Tướng Bát Nhã chẳng phải là bờ bên này, chẳng phải là bờ bên kia. Do đạt được Thật Tướng của niệm hiện tiền nên sanh tử chính là Niết Bàn, đó gọi là Ba La Mật. Quán Chiếu Bát Nhã cũng chẳng phải là bờ bên này, chẳng phải là bờ bên kia; Do soi rõ một niệm hiện tiền này chính là Thật Tướng nên Hoặc biến thành trí, đó gọi là Ba La Mật. Văn Tự Bát Nhã cũng chẳng phải là bờ bên này, chẳng phải là bờ bên kia; Do hiển hiện một niệm hiện tiền chính là Thật Tướng nên kết nghiệp chính là giải thoát, đó gọi là Ba La Mật. Vì thế, tâm này chính là Tam Bát Nhã, Tam Bát Nhã chỉ là một tâm. Lý này thường hằng, chẳng thể thay đổi, nên gọi là Kinh. Nương theo đấy để thành hạnh, ba đời chư Phật, Bồ Tát cùng tuân hành, nên gọi là Kinh. Nói pháp môn này, thiên ma, ngoại đạo chẳng thể hoại loạn nên gọi là Kinh. Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Muốn biết đường trong núi, phải hỏi người từng trải; Vì thế nêu ra người quán tâm thành hạnh để làm gương mẫu. “Quán” chính là trí năng quán, tức là nhất tâm tam quán, gọi chung là Quán Chiếu Bát Nhã. Tự Tại là do chứng lý đế Thật Tướng, được đại giải thoát đối với các cảnh giới. Bồ Tát, dịch là Giác Hữu Tình chính là danh hiệu tự lợi, lợi tha; Trí khế hợp Thật Tướng nên tự lợi trọn đủ, trí tuyên nói văn tự nên lợi tha trọn khắp. Vì thế gọi là Bồ Tát. Điều này nhằm chỉ rõ người có thể hành phép quán chiếu này. “Thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa” Đắc tam trí nhất tâm, chẳng giống với Tam Thừa trong Quyền Giáo, vì thế gọi là “thâm”. Câu này nói chung về pháp được hành. “Thời” là nói ngược lại từ bao kiếp về trước, từ lúc đã được sự tương ứng ấy mãi cho đến hết đời vị lai, từ đầu đến cuối chẳng lìa Bát Nhã sâu xa. * “Chiếu kiến” là nói riêng về cái trí dùng để quán sát Năng Quán Trí, tức là Quán Chiếu Bát Nhã. “Ngũ Uẩn” là nói riêng về cảnh được quán, tức Văn Tự Bát Nhã. “Giai không” là nói riêng về đế lý được hiển lộ bởi Quán Chiếu Bát Nhã, đấy chính là Thật Tướng Bát Nhã. Không ấm nào trong Ngũ Ấm chẳng phải là Không, Giả, Trung, lìa trọn bốn câu, bách phi tánh tuyệt, nên cưỡng gọi là Không. “Độ nhất thiết khổ ách” Tự thoát khỏi khổ nhân và khổ quả của hai thứ Tử Phần Đoạn và Biến Dịch, mà cũng làm cho chúng sanh trong tam giới cùng thoát khỏi nhân quả của hai thứ Tử, đấy chính là hiệu quả của việc hành pháp ấy, đó cũng chính là Ba La Mật Đa. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp Không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố Không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức, vô Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, vô Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô Vô Minh, diệc vô Vô Minh tận, nãi chí vô Lão, Tử, diệc vô Lão, Tử tận, vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo, vô Trí, diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố. Đoạn này giải thích rộng về sự thật nơi cảnh “Ngũ Uẩn đều là Không” quán chiếu tự tại trong những thứ ấy tức những cảnh được quán như Ngũ Uẩn bởi lẽ Nếu chẳng quán chiếu thì sẽ chẳng thể hiểu thấu suốt sự thật nơi cảnh này được. Hễ tâm chẳng khởi lên thì thôi, chứ tâm vừa móng lên chút xíu, ắt Căn, Thân, Khí Giới sẽ liền hiện ngay, đó gọi là Sắc Uẩn; Ắt sẽ có nhận lãnh các cảnh khổ hay vui, đó gọi là Thọ Uẩn; Ắt sẽ có chấp vào tướng, đặt bày danh từ, lời lẽ, đó gọi là Tưởng Uẩn; Ắt sẽ sanh diệt, dời đổi chẳng ngừng, đó gọi là Hành Uẩn; Ắt sẽ phân biệt các pháp rành rành, đó gọi là Thức Uẩn. Do vậy biết Hễ khởi lên một tâm nhỏ xíu thì theo lẽ tự nhiên sẽ trọn đủ cả năm tầng vẩn đục. Nay dùng Bát Nhã rất sâu để chiếu thì sẽ biết rõ Sắc chỉ là Tâm, chứ chẳng có Sắc thật sự nào khác; Hết thảy căn, thân, khí giới đều như hoa đốm trên không, như vật trong mộng; Cho nên Sắc chẳng khác Không! Không cũng chỉ là tâm, chứ không có cái Không nào khác. Nếu có một pháp nào vượt khỏi Niết Bàn thì ta cũng nói là như huyễn, như mộng; Cho nên Không chẳng khác Sắc. Đã nói “chẳng khác” bất dị thì đã thành ra “tương tức” chính là lẫn nhau. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Giảng giải Vẫn sợ kẻ bị mê tình phủ lấp, hiểu bàn tay ngửa khác với bàn tay úp nên lại nói trùng lặp “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Nghĩa là hễ nhón lấy một Sắc chừng bằng vi trần thì Thể của nó chính là cả pháp giới; Theo chiều ngang trọn khắp, theo chiều dọc tột cùng. Vì vậy, “tức thị Không” hàm ý Toàn Sự chính là Lý, chẳng có chút xíu Lý tánh nào chẳng nằm trong Sự ấy; Tức là vi trần trọn đủ toàn bộ Lý chân không; Lại còn cùng lúc trọn đủ toàn bộ mọi sự trong pháp giới, nên chính là Sắc, nên được gọi là “toàn Sự chính là Lý”. Chẳng có chút xíu sự tướng nào chẳng nằm trong Lý ấy. Như vậy thì ở ngay nơi Thể, dứt bặt sự đối đãi, chẳng có hai vật. Đã hiểu thấu suốt Thật Tướng nơi Sắc Uẩn thì đối với Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều cứ suy theo đó sẽ biết. Lại sợ kẻ mê chấp cho rằng Thật Tướng của Ngũ Uẩn do từ chiếu kiến sanh ra, nên lại chỉ rõ rằng Bản thể của các pháp Ngũ Uẩn ấy chính là Thật Tướng của Chân Không; Nó vốn tự như vậy, chứ không phải là Thật Tướng sanh, Ngũ Uẩn diệt. Bởi lẽ, Ngũ Uẩn vốn tự chẳng sanh, chẳng diệt, nên gọi là “Không tướng”. * Lại sợ kẻ mê chấp cho rằng tướng Không của Ngũ Uẩn tuy chẳng sanh diệt, nhưng có nhơ, sạch. Nghĩa là tưởng rằng phàm phu thuận theo nhiễm duyên mà nhơ; Thánh nhân thuận theo tịnh duyên mà sạch, nên lại chỉ dạy rõ ràng rằng Ngũ Uẩn của phàm phu cũng chính là tướng Không; Ngũ Uẩn của thánh nhân cũng chính là tướng Không, nào có nhơ, sạch ư? Lại sợ kẻ mê chấp cho rằng tướng Không của Ngũ Uẩn tuy chẳng nhơ hay sạch, nhưng có tăng – giảm, ngỡ rằng phàm phu mê nên sanh tử khốc liệt, ấy là tăng, đức tướng ẩn lấp, ấy là giảm; do thánh nhân ngộ nên Chiếu có công dụng vô tận, đó là tăng, Hoặc nghiệp tiêu vong, đó là giảm. Vì thế, lại chỉ dạy rõ ràng rằng Lúc mê thì cũng chỉ có tướng Không của các pháp này, mà lúc ngộ thì cũng chỉ là tướng Không của các pháp này, nào có tăng giảm ư? * Đã nêu rõ sự thật mầu nhiệm nơi Ngũ Uẩn này rồi, liền tiếp tục áp dụng rộng rãi vào hết thảy pháp tướng sai biệt để dung hội, dứt tuyệt tình kiến phân biệt thánh – phàm sai khác, bèn nói “Thị cố Không trung vô Sắc” cho đến “diệc vô đắc”. Thế nhưng, nói “vô sắc” cho đến “vô sở đắc”, há có phải là đợi sau khi dung hội, dứt tuyệt những kiến chấp phân biệt rồi thì chúng mới không có hay sao? Ấy là vì chúng vốn có gì để đạt được! Do vốn là không có gì để đạt được nên gọi là Đế. Hiểu thấu sự vô đắc này thì gọi là Quán, nhưng nói chung “chẳng lìa Ngũ Uẩn” là cảnh được quán. Lại nữa, dù là Cảnh, hay Đế, hay Quán…Nói chung đều chẳng rời khỏi một niệm tâm nhỏ nhoi hiện tiền. Một tâm rành rành trọn đủ ba nghĩa Đế chính là Thật Tướng. Quán chính là Quán Chiếu. Cảnh chính là Văn Tự. Chẳng phân biệt là ngang hay dọc, mà cũng chẳng phải là một hay khác, vì thế gọi là “thâm Bát Nhã”. Bồ Đề Tát Đỏa, y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Đoạn này nêu lên trọn khắp chư Phật, Bồ Tát để làm chứng; Nhằm giảng rõ Bát Nhã sâu xa, thật sự có thể độ thoát hết thảy khổ ách. Nghĩa là chư Như Lai trong quá khứ đã thành tựu môn này; Chư Bồ Tát trong hiện tại nay mỗi vị đều nhập viên minh; Những người tu học trong tương lai cũng sẽ y theo pháp như vậy, chứ chẳng phải chỉ mình ngài Quán Thế Âm. “Vô quái ngại” Kết nghiệp chính là giải thoát, rốt ráo phương tiện tịnh Niết Bàn. “Vô khủng bố” Khổ quả chính là Pháp Thân, rốt ráo tánh tịnh Niết Bàn. “Viễn ly điên đảo mộng tưởng” Phiền Hoặc chính là trí sáng, rốt ráo viên tịnh Niết Bàn. Nương vào Thật Tướng Bát Nhã đắc Chân Tánh Bồ Đề. Nương theo Quán Chiếu Bát Nhã đắc Thật Trí Bồ Đề. Nương theo Văn Tự Bát Nhã đắc Phương Tiện Bồ Đề. Bồ Đề là Như Như Trí, Trí ắt phải ngầm hợp Lý. Niết Bàn chính là Như Như Lý, Lý ắt phải khế hợp Trí. Vì thế, mới nói đại lược nhằm soi rọi lẫn nhau. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Giảng giải Bát Nhã sâu xa này chính là đại thần chú vì có đủ diệu dụng. Nó là đại minh chú vì trí soi rọi tướng. Nó là vô thượng chú vì bản thể là Thật Tướng. Nó chính là vô đẳng đẳng chú chú không có gì sánh bằng vì không có một pháp nào có thể bằng được tâm này. Tâm này có thể bình đẳng với hết thảy pháp vì có thể khiến cho chúng đều quy về Thật Tướng ấn. Tâm chú này đích thực có thể trừ các khổ nhân, khổ quả của sự phân biệt tự tha; Phần Đoạn, Biến Dịch, chân thật chẳng dối, phải nên tin tưởng chắc thật vậy. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha. Nơi phần Hiển Thuyết trong đoạn trước đã chỉ ra Bát Nhã chính là chú, ở đây là Mật Thuyết. Cần biết rằng Chú chính là Bát Nhã, đã hiển thuyết lại còn mật thuyết. Hiển và Mật đều trọn đủ bốn lợi ích Tất Đàn[9]. Chẳng phiên dịch [ý nghĩa của chú] là hay nhất, chớ nên dò dẫm suy lường! Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Phụ chú [1] Thường Kiến Sasvatadrsti, còn gọi là Thường Tà Kiến, hoặc Thường Luận. Đây là tà kiến chủ trương thế giới thường trụ, bất biến; Tự ngã của con người bất diệt, chấp trước các pháp hữu vi thế gian. Có nhiều loại Thường Kiến, nếu dựa theo ba đời và hữu tướng, vô tướng để phối hợp sẽ thành sáu mươi hai món tà kiến. [2] Kim Đan Giáo, còn được biết dưới danh xưng Tại Lý Hội hoặc Học Hảo là một chi phái của Bạch Liên Giáo, do Dương Lai Như sáng lập tại huyện Tức Mặc, tỉnh Sơn Đông. Phái này rêu rao “dung hợp tam giáo thành một thể”. Chủ trương cấm uống rượu, cấm hút thuốc phiện…Mang tính chất hội kín nhằm lật đổ Thanh Triều, khôi phục nhà Minh. Năm Quang Tự 17 1891, lãnh tụ Dương Duyệt Xuân đã sách động quần chúng khởi nghĩa. Họ thiêu hủy giáo đường Thiên Chúa Giáo, tấn công giáo sĩ, tấn công quân Thanh. Nhà Thanh phải tốn rất nhiều công sức mới dẹp yên được. * [3] Theo Nội Đan nhằm phân biệt với Ngoại Đan phải dùng đến dược vật. Đạo Sĩ chủ trương hít thở, nung luyện tinh khí thần sao cho Tinh – Khí – Thần hợp nhất, tạo thành thân trường sanh bất tử. Họ chủ trương quá trình nung luyện ấy gọi là Hỏa Hầu; Tức là điều tiết vận chuyển sức nóng của nội hỏa phối hợp với 12 giờ Âm Dương trong một ngày. Theo họ, Nội Hỏa chính là sức nóng bên trong cơ thể do hấp thụ khí vũ trụ Thái Dương chân khí. Mỗi ngày có 12 giờ 12 thời thần, đi hết một vòng Giáp Tý là 60 giờ, tức là một “hầu”. Nói cách khác, luyện Hỏa Hầu là một quy cách nhằm nắm giữ ý niệm trong thuật luyện đan, khống chế nội khí trong cơ thể và mỗi trình độ tu luyện có cách tập Hỏa Hầu riêng. * [4] Thăng, Giáng là hai trong bốn cách phân chia tác dụng thăng, giáng, trầm, phù của từng loại thuốc trong Đông Y. Theo họ, các bệnh tật có thể chia thành bốn loại lớn Hướng thượng như ói mửa, ho suyễn Hướng hạ như tiêu chảy, băng huyết, lòi dom Hướng ngoại như đổ mồi hôi trộm. Hướng nội như biểu hiện bệnh tình không rõ rệt. Để chữa các căn bệnh đó sẽ dùng các loại thuốc có tác dụng đối trị như Thăng nâng lên, Giáng hạ xuống Chẳng hạn như với căn bệnh hướng thượng thì dùng thuốc có tác dụng Giáng; Bệnh hướng hạ thì dùng thuốc có tánh Thăng; Bệnh hướng ngoại thì dùng thuốc có tánh Trầm; Bệnh hướng nội thì dùng thuốc có tánh Phù Những loại thuốc được coi là Giáng thường có tác dụng khử phong, tán hàn [5] Đây là một câu trong thiên Cáo Tử Thượng của sách Mạnh Tử “Vạn chung tắc bất biện lễ nghĩa nhi thọ chi, vạn chung ư ngã hà gia yên?” Chung là một đơn vị đo lường thời cổ, sáu thạch bốn đấu là một chung. Theo cụ Lý Bỉnh Nam, câu này phải hiểu như sau “Đối với bổng lộc đến một vạn chung, có kẻ liền tiếp nhận chẳng cần suy xét xem bổng lộc ấy có hợp với lễ nghĩa hay chăng, bổng lộc vạn chung đối với ta có gì là tốt đẹp đâu?” * [6] Bình Tần Già Ở Ấn Độ vào thời cổ, người ta thường làm bình có cái quai chạm thành hình chim Ca Lăng Tần Già Kalavinka. Bình này có khoét hai lỗ để đổ chất lỏng vào. [7] Trí Độ Luận nêu ra ba thứ Bát Nhã Thật Tướng Bát Nhã, Quán Chiếu Bát Nhã và Văn Tự Bát Nhã. [8] Khí giới 器界 chỉ y báo, tức “khí thế gian thế giới”. Tức những cảnh bên ngoài làm nơi nương tựa cho Căn và Thân chánh báo. [9] Tứ Tất Đàn Tất Đàn Siddhānta, có nghĩa là Thành Tựu. Phương tiện giáo hóa chúng sanh của Phật có thể chia thành bốn loại * Thế giới Tất Đàn Thuận theo phương cách suy nghĩ, khảo sát của thế giới; Dùng văn tự, ngôn ngữ, quan niệm của thế gian để thuyết minh đạo lý chân thật. Khiến cho phàm phu thích nghe pháp, dần dần khế nhập chánh trí của Phật. Các các vị nhân Tất Đàn Dùng lập trường lấy con người làm gốc, nhấn mạnh trách nhiệm của con người. Nhằm xoay chuyển tập quán phàm phu, kiến lập nhân sinh quan và vũ trụ quan Phật pháp cho con người. . Đối trị Tất Đàn Những pháp được nói theo cách thế giới Tất Đàn chỉ trừ được ác tướng thô lậu, chẳng thể trừ dẹp cội rễ và tướng vi tế của ác nghiệp. Do vậy phải quán sát từng căn bệnh của chúng sanh để thuyết pháp phù hợp. Nhằm giúp họ đối trị phiền não, tập khí tận gốc. Đệ nhất nghĩa Tất Đàn Khi kiến giải của chúng sanh đã sạch vọng tưởng, chấp trước. Bèn dẫn dụ họ tiến nhập Đệ Nhất Nghĩa Đế, chứng nhập Chân Như Thật Tướng. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh giảng giải Tuệ Tâm 2021. Bản đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Hán Việt, Bản phổ Kinh Bát Nhã của Hoà thượng Thích Nhất Hạnh và Phổ thơ lục bát Kinh Bát Nhã của Hệ phái Khất Sĩ. > Kinh Pháp Cú > Kinh Dược Sư Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Bản tụng Hán Việt Bát Nhã Tâm Kinh bản tiếng Hán. Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. Bản dịch nghĩa Tiếng Việt của Bát Nhã Tâm Kinh Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh, mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc. Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác. Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối. Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó! Bản phổ Kinh Bát Nhã của Hoà thượng Thích Nhất Hạnh Bồ Tát Quán Tự Tại Khi quán chiếu thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật tức Diệu Pháp Trí Độ Bổng soi thấy năm uẩn Đều không có tự tánh Thực chứng điều ấy xong Ngài vượt thoát tất cả Mọi khổ đau ách nạn. Nghe đây Xá Lợi Tử Sắc chẳng khác gì không Không chẳng khác gì sắc Sắc chính thực là không Không chính thực là sắc Còn lại bốn uẩn kia Cũng đều như vậy cả. Xá Lợi Tử nghe đây Thể mọi pháp đều không Không sanh cũng không diệt Không nhơ cũng không sạch Không thêm cũng không bớt Cho nên trong tánh không Không có sắc, thọ, tưởng Cũng không có hành thức Không có nhãn, nhĩ, tỷ Thiệt, thân, ý sáu căn Không có sắc, thanh, hương Vị, xúc, pháp sáu trần Không có mười tám giới, Từ nhãn đến ý thức Không hề có vô minh Không có hết vô minh Cho đến không lão tử Cũng không hết lão tử Không khổ, tập, diệt, đạo Không trí cũng không đắc Vì không có sở đắc Khi một vị Bồ Tát Nương Diệu Pháp Trí Độ Bát Nhã Ba La Mật Thì tâm không chướng ngại Vì tâm không chướng ngại Nên không có sợ hãi Xa lià mọi vọng tưởng Xa lìa mọi điên đảo Đạt Niết Bàn tuyệt đối Chư Bụt trong ba đời Y Diệu Pháp Trí Độ Bát Nhã Ba La Mật Nên đắc vô thượng giác Vậy nên phải biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Là linh chú đại thần Là linh chú đại minh Là linh chú vô thượng Là linh chú tuyệt đỉnh Là chân lý bất vọng Có năng lực tiêu trừT ất cả mọi khổ nạn Cho nên tôi muốn thuyết Câu thần chú Trí Độ Bát Nhã Ba La Mật Nói xong đức Bồ Tát Liền đọc thần chú rằng Yết đế, Yết đế Ba la Yết đế Ba la Tăng yết đế Bồ đề tát bà ha Phổ thơ lục bát Kinh Bát Nhã của Hệ phái Khất Sĩ Khi hành Bát Nhã Ba La Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng Thấy ra năm uẩn đều Không Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua Nầy Xá Lợi Tử xét ra Không là sắc đó, sắc là không đây Sắc cùng không chẳng khác sai Không cùng sắc vẫn sánh tài như nhau Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào, Cũng như sắc uẩn ,một màu không không Nầy Xá Lợi Tử ghi lòng Không không tướng ấy, đều không tướng hình Không tăng giảm, không trược thanh Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng Vậy nên trong cái chơn không Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh Từ không giới hạn mắt nhìn Đến không ý thức, vô minh cũng đồng Hết vô minh, cũng vẫn không Hết già, hết chết, cũng không có gì Không khổ, tập, diệt, đạo kia Trí huệ chứng đắc cũng là không không Sở thành, sở đắc bởi không Các vì Bồ Tát nương tùng huệ năng Tâm không còn chút ngại ngăn Nên không còn chút băng khoăng sợ gì Đảo điên mộng tưởng xa lìa Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ Ba đời chư Phật sau, xưa Đắc thành Chánh Giác cũng nhờ huệ năng Trí huệ năng lực vô ngần Đại Minh vô thượng, Đại Thần cao siêu Trí huệ năng lực có nhiều Thật là thần chú trừ tiêu não phiền Trí huệ năng lực vô biên Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn Liền theo lời chú thuyết rằng Độ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh. Yết đế, yết đế Ba la yết đế Ba la tăng yết đế Bồ đề Tát bà ha. Tham khảo thông tin quan trọng về Bát Nhã Tâm Kinh - Giáo lý căn bản tìm hiểu về Bát Nhã Tâm Kinh - Tôi tụng Bát Nhã Tâm Kinh Ba La Mật Đa > Tìm hiểu về Kinh Phật Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. 般 若 波 羅 蜜 多 心 經 Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Xin các bạn đọc Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh bằng âm Nôm và nghĩa Việt, trước khi đọc chú giải. 般 若 波 羅 蜜 多 心 經. 觀 自 在 菩 薩。行 深 般 若 波 羅 蜜 多 時 。照 見 五 蘊 皆 空 。度 一 切 苦 厄。舍 利 子。色 不 異 空。 空 不 異 色。色 即 是空 。 空 即 是 色。受 想 行 識 亦 復 如 是. 舍 利 子。是 諸 法 空 相 。不 生 不 滅。不 垢 不 淨 。不 增 不 減。是 故 空 中 無 色。無 受 想 行 識。無 眼 耳 鼻 舌 身 意。無 色 聲 香 味 觸 法。無 眼 界 。 乃 至 無 意 識 界 。無 無明 。亦 無 無明 盡。乃至 無 老 死。亦 無 老 死 盡。無 苦 集 滅道 。無 智 亦 無 得。以 無 所 得 故。菩 提 薩 埵 。依 般 若 波 羅 蜜 多 故。心 無 罣 礙 。無 罣 礙 故。無 有 恐怖。遠 離 顛 倒 夢 想。究 竟 涅 槃。三 世 諸 佛。依 般 若 波 羅 蜜 多 故。得 阿 耨 多羅 三 藐 三 菩 提。故 知 般 若 波 羅 蜜 多。是 大 神 咒 。是 大 明咒 。是 無 上咒。是 無 等 等 咒 。能 除 一 切 苦。真 實 不 虛 。故 說 般 若 波 羅 蜜 多 咒。即 說 咒曰。揭 諦 揭 諦。 波 羅 揭 諦 。波 羅 僧 揭 諦。菩 提 薩 婆 訶。 Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành thức. Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc, thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. Dịch nghĩa Việt Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế. Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh, mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc. Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác. Cho nên phải biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối. Cho nên khi nói đến Bát Nhã Ba La Mật Đa, tức là phải nói câu chú Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. Mở đầu phần chú giải, mời các bạn đọc lại đoạn Kinh bằng âm Hán Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Nghĩa Việt đoạn Kinh này Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Bồ Tát là một người tỉnh thức. Bồ Tát từ chữ Boddhisatava mà ra, có nghĩa là con người tỉnh thức và đang giúp người khác tỉnh thức. Quán Tự Tại là tên dịch từ Avalokiteshvara. Tại Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc, và Nhật Bản, dịch Avalokiteshvara là Quan Âm, Quán Âm, có nghĩa là một người biết lắng nghe và nghe tiếng kêu cứu của chúng sanh đang đau khổ. Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực tập thâm sâu về Bát Nhã Ba La Mật Đa Prajana Paramita , tức là thứ trí tuệ có thể đưa bạn đến bờ bên kia. Thì ngài thấy năm uẩn đều không. Vậy Năm uẩn không cái gì? Năm uẩn rỗng cái gì? Đó là một câu hỏi quan trọng. Nếu tôi cầm một tách nước đầy và tôi hỏi bạn, "Cái tách này trống rỗng?" Bạn sẽ nói, "Không, tách này có đầy nước." Nhưng nếu tôi đổ hết nước ra ngoài và hỏi bạn lại lần nữa, bạn có thể nói, " Đúng rồi, tách là trống rỗng." Nhưng, trống rỗng cái gì? Trống có nghĩa là không chứa một cái gì đó. Tách không thể, không chứa cái gì. Tách nước đang trống rỗng nước nhưng nó chứa đầy không khí. Khi Bồ Tát Quán Thế Âm nói rằng năm uẩn đều là không, chính xác Bồ Tát Quán Thế Âm dạy rằng năm uẩn đều là không có tính riêng biệt. Tức là không có uẩn nào tồn tại một cách độc lập. Và 1 trong 5 uẩn có liên hệ tương tức với 4 uẩn còn lại. Năm uẩn, là năm yếu tố của con người. Nó giống như năm con sông đang chảy trong mỗi người chúng ta. Con sông của hình tướng, có nghĩa là hình hài cơ thể của bạn; con sông của cảm xúc; con sông của nhận thức; con sông tinh thần; và con sông của ý thức. Nó luôn hoạt động không ngừng nghỉ. Trong cơ thể của một người bình thường có phổi, tim, thận, dạ dày, và máu. Không có một bộ phận nào tồn tại độc lập. Chúng luôn có mối liên hệ tương tức với các bộ phận còn lại. Phổi và máu của là hai bộ phận có chức năng riêng rẻ, nhưng không thể tồn tại độc lập. Phổi để hít thở, bơm oxy vào cho máu, và đến lượt máu lại cung cấp dinh dưỡng cho phổi. Nếu không có máu, phổi không thể sống lành mạnh khỏe khoắn, và ngược lại nếu không có phổi, máu sẽ không được làm sạch và lưu thông mọi nơi trong thân thể. Vì vậy phổi và máu có quan hệ mật thiết với nhau. Khi quán chiếu các bộ phận còn lại như thận và máu, thận và dạ dày, thận và phổi, thận và tim, đều như vậy. Bạn hãy tưởng tượng, trong cơ thể con người, có rất nhiều bộ phận, thì từng bộ phận một có liên hệ với các bộ phận còn lại tạo ra mối quan hệ đan xen như thế nào. Nó như một tổ hợp hoán vị n! của một bộ phận trong cơ thể với vô số các bộ phận còn lại. Bồ Tát Quán Thế Âm nhìn sâu vào năm uẩn của sắc, thọ, tưởng, hành, thức và nhận thấy rằng không có uẩn nào tồn tại độc lập. Và khi “ hành thâm ”như vậy ngài đã “độ nhất thiết khổ ách” Hành thâm là thâm nhập vào một cái gì đó, không chỉ đứng bên ngoài mà nhìn vào. Khi bạn muốn hiểu rõ điều gì, bạn không thể chỉ đứng bên cạnh và ngó vào rồi nhận xét. Bạn phải đi sâu vào bên trong để thực sự thấu hiểu. Nếu bạn muốn hiểu rõ một người bên cạnh, bạn phải biến cái cảm xúc của họ thành cảm xúc của mình, phải đau khổ với nổi đau khổ của họ, phải vui với niềm vui của họ. Nếu bạn chỉ nhìn vào tờ giấy như một người quan sát, đứng bên ngoài mà nhìn vào, bạn không thể hiểu nó hoàn toàn. Bạn phải hành thâm nó. Bạn phải là một đám mây, là ánh nắng mặt trời, và người đốn củi. Nếu bạn hành thâm được như vậy, sự hiểu biết của bạn về tờ giấy rốt ráo hơn. Bây giờ mời các bạn đọc tiếp đoạn Kinh sau Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị. Nghĩa Việt của đoạn Kinh Thầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính thực là không, không chính thực là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng đều như vậy. Đoạn Kinh này, ban đầu Ngài Bồ tát Quán Thế Âm nói về uẩn thứ nhất, tức là Sắc, là thân thể của chúng ta. Sắc là tất cả những hiện tượng sinh lý, vật lý. Trong Kinh văn, chữ gây khó khăn cho nhiều người nhất là 空Không. Chữ Không ở đây, tiếng Phạn là Sunyata, Hán là 空, dịch tiếng Việt là trống rỗng. Ví dụ rau muống gọi là Không tâm thảo, thứ rau không có ruột. Khi chuyển sang dùng tiếng Việt, chúng ta có thể hiểu lầm “Không” này là “không có”. Nhiều người không hiểu giáo lý tính Không đạo Phật nói rằng tờ giấy này nó “không có”, tại vì tuy bây giờ nó có đó, nhưng mai mốt nó sẽ không có; hoặc nó bị đốt đi, hoặc bị mục đi thành đất, cho nên tuy nó có đó mà cũng như không có đó. Câu giải thích này hoàn toàn sai với giáo lý đạo Phật. Theo giáo lý đạo Phật, nếu tờ giấy này nó “không” thì nó không ngay từ bây giờ chứ không phải sau này nó mới không. Giáo lý đạo Phật cơ bản là giáo lý vô ngã sự vật không có tự thể riêng biệt. Nếu mình nhìn vào tờ giấy này với con mắt của một vị Bồ Tát biết nhìn sâu vào trong lòng tờ giấy để thấy cội nguồn của nó, mình sẽ thấy có một đám mây đang bay trong tờ giấy này. Mình cũng không cần là thi sĩ mới thấy được đám mây, vì mình biết nếu không có đám mây thì không có mưa, cây rừng sẽ không thể mọc lên được, do đó chúng ta không có bột giấy. Nhìn vào tờ giấy này, bạn còn thấy mặt trời, vì nếu không có mặt trời chiếu lên thì không có loài thực vật nào mọc được, cho nên nhìn vào tờ giấy này, ta sẽ thấy ánh mặt trời chói lọi trong đó. Rồi ta còn thấy rừng cây xanh mướt, thấy những chiếc lá rụng, mục đi để cây rừng tươi tốt, ta thấy những chất khoáng trong lòng đất mà rễ cây hút lên để nuôi cây. Rồi ta thấy người tiều phu đã đốn cây đem về để làm bột giấy, thấy Ba Má của ông tiều phu. Ta thấy luôn gạo lúa mà người tiều phu ăn hàng ngày để có thể đủ sức đi đốn cây. Tóm lại, khi nhìn tờ giấy này bằng con mắt quán chiếu nhân duyên, ta thấy rằng không có hiện tượng nào trên vũ trụ mà không có mặt trên tờ giấy. Tờ giấy, chứa đầy cả vũ trụ vạn hữu trong đó. Khi dùng danh từ giấy, ta nên phân biệt hai thứ một là tờ giấy và hai là những yếu tố không phải giấy. Ta có thể nói rằng giấy được kết hợp bằng những yếu tố không phải giấy. Giấy là do những yếu tố không giấy tạo ra, giấy không thể tự có được. Giấy không có tự tánh hoặc có thể tự riêng biệt. Nó có là nhờ những cái không phải nó bắt tay nhau tập hợp làm ra. Tờ giấy này tuy rỗng, không có tự tánh riêng, nhưng nó lại đầy cả vũ trụ vạn hữu trong đó. Vì vậy chữ “空” trong Tâm Kinh Bát chỉ có nghĩa là không có một tự thể riêng biệt. Uẩn nào trong năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng không hết, vì uẩn nào cũng không thể tự mình tồn tại độc lập. Uẩn nào cũng phải nhờ các uẩn khác phụ giúp mới có thể có được. Đồng xu có hai mặt mặt trái và mặt phải. Sở dĩ có mặt phải là nhờ có mặt trái. Nếu một trong hai mặt mà không có thì mặt kia cũng không có luôn. Năm uẩn cũng vậy, chúng nương nhau mà có, chứ không thể có một cái tách rời. Phân chia là để tạm hiểu thôi, chứ năm uẩn không thể nào tồn tại độc lập với nhau. Trong con người chúng ta, có đủ tâm, can, tỳ, phế, thận tuy chia ra làm năm cái nhưng kỳ thực nếu không có tâm thì can có thể tồn tại được không? Nếu không có tỳ thì phế có được hay không? Tuy rằng năm mà kỳ thực là một. Những cơ quan trong cơ thể ta không thể tồn tại độc lập, cái này nương cái kia mà có. Vì thế Phật dạy rằng Thử hữu tắc bí hữu. Cái này có mặt cho nên cái kia có mặt, cái kia có mặt cho nên cái này mới có mặt. Tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ đã phối hợp lại để làm thành một hiện tượng. Không sự vật nào trong vũ trụ có tự tánh riêng biệt hết. Đó là giáo lý căn bản của đạo Phật. Mời bạn đọc tiếp đoạn Kinh “ Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.” Dịch nghĩa Việt là “ Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt. ” Chư pháp tức là mọi hiện tượng. Mặt trời là pháp, dòng sông, hạt bụi, hòn sỏi, sự thương, sự ghét, con mắt, lỗ tai cũng đều là pháp. Thể mọi pháp đều không bản chất của mọi hiện tượng đều không, nghĩa là không có tự tánh riêng biệt. Không sinh cũng không diệt. Các pháp chưa bao giờ sinh ra, cũng không bao giờ diệt. Câu nói này của Đức Quán Tự Tại đi ngược với nhận thức thông thường của chúng ta. Mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta thường chứng kiến sự sinh tử. Khi một người được sinh ra, tờ giấy khai sinh công nhận thời điểm người đó sinh ra. Sau khi người đó chết, để có tính pháp lý khi chôn cất, người nhà cần phải có một giấy chứng tử. Giấy chứng tử công nhận con người đó đã chết. Chúng ta thường nghĩ cái gì cũng có sanh, cái gì cũng có diệt, và sinh diệt xãy ra hàng ngày. Vậy tại sao Đức Quán Thế Âm lại nói không sinh cũng không diệt? Chúng ta phải nhìn sâu hơn, quán chiếu thâm sâu để xem tại sao Đức Quán Thế Âm lại nói như thế. Ngày mà mẹ bạn sinh bạn ra, nó được ghi lại trong giấy khai sinh. Vậy trước ngày đó, bạn đã tồn tại chưa? Trước ngày sinh đó, bạn đã có mặt rồi. Nhưng chưa hội đủ duyên để bạn ra khỏi bụng mẹ bạn thôi. Chữ sinh làm mọi người hiểu là từ không mà trở thành có. Nếu mình có rồi thì mình đâu cần phải sinh nữa? Vậy bạn không có sinh. Nếu không có sinh tức là không có diệt. Đó là sự thật mà Đức Quán Thế Âm muốn khơi mở cho chúng ta thấy. Thể mọi pháp đều không, Không sinh cũng không diệt. Đã không sinh rồi thì làm sao mà có diệt? Có thể nào mình làm cho hòn đá kia từ có trở thành không? Rất khó. Mình có thể nghiền nó thành bột, rồi rãi tung ra, nhưng đó đâu phải là biến nó thành không? Hòn đá chỉ trở thành bột đá. Cây nhang mình đốt, nó cũng không phải đang từ có đi tới không. Mùi thơm của nhang đi vào trong không gian, nhiệt lượng của nó cũng đi vào không gian. Nó đang luân hồi. Tro của nhang sẽ đi vào đất để có thể trở thành một nụ hoa. Một hột bụi dù nhỏ xíu đi nữa cũng không thể nào biến mất đi được. Nó chỉ biến đổi, đi vào vũ trụ tồn tại dưới một hình thức khác. Vì vậy, không ai có thể làm cho một vật từ có trở thành không, cũng như không ai có thể làm cho một vật từ không trở thành có. Một đám mây khi gặp khí lạnh có thể cảm thấy sợ hãi, vì nghĩ rằng mình sẽ trở thành không. Sự thực không phải thế. Khi gặp khí lạnh, nếu đám mây biết được không sinh cũng không diệt, mây chỉ trở thành mưa, để rơi xuống trên ruộng đồng, trên cây cỏ, trên hoa lá, thì đám mây sẽ cho đó là một hình thái đi chơi rất vui sướng. Đám mây sẽ rung mình biến thành mưa một cách rất tự nhiên, rất điềm tĩnh, rất hoan lạc. Chúng ta hay lo lắng, sợ rằng sau khi mình chết, thân mình không còn nữa. Nói như nhạc sỹ Trịnh Công Sơn “ Một mai trở về cát bụi”. Nhưng điều đó không đúng sự thật. Các bạn biết đó, như phân tích ở lúc đầu, một tờ giấy mỏng cũng chứa cả vũ trụ thì hạt bụi cũng vậy. Một hạt bụi cũng chứa toàn bộ vũ trụ. Nếu như bạn lớn như mặt trời, bạn nhìn xuống trái đất, thấy trái đất nó chẳng là cái gì, vô cùng bé. Nhưng bạn là con người, bạn nhìn trái đất rất vĩ đại, to lớn vô cùng. Ý tưởng lớn nhỏ đó chỉ là khái niệm trong tâm trí của chúng ta. Ví dụ, mặt trăng, Bạn luôn nghĩ trăng tròn, trăng khuyết. Nhưng trên thực tế, mặt trăng vẫn luôn là mặt trăng. Nó không khuyết nó cũng không đầy. Lớn bé, nhỏ to, khuyết đầy là trong suy nghĩ của bạn. Vì vậy, bạn đừng sợ mất đi. Hãy quán chiếu mặt trăng. Trăng khuyết, trăng tròn, nhưng nó luôn luôn là mặt trăng đó thôi. Mời các bạn đọc tiếp đoạn Kinh sau Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Dịch nghĩa Việt của đoạn Kinh này là Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc. Đọan Kinh này là phân tích mười tám giới. Đầu tiên bạn có sáu giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sau đó có cảm nhận sáu trần về sắc, thanh, mùi, vị, xúc giác, và tâm. Sắc là đối tượng nhận biết của mắt, âm thanh là đối tượng nhận biết của tai, và tiếp tục như vậy bạn có sáu thức. Từ sắc tức là cái thấy cho đến ý thức bạn có mười tám giới . Mười tám giới, từ nhãn giới cho đến ý thức giới, đều nương nhau mà được thành lập. Không giới nào có thể tồn tại độc lập. Một giới có mặt là do mười bảy giới kia có mặt. Chữ không ở đây có nghĩa là không có sự tồn tại biệt lập. Các bạn đọc đoạn Kinh tiếp theo Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Dịch nghĩa Việt của đoạn Kinh này Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Mộng tưởng điên đảo là những tri giác sai lầm của mình. Chúng tạo ra những sợ hãi và căm thù mà mình đã là nạn nhân lâu nay. Khi đám mây biết rằng nó không sinh cũng không diệt, thì khi thời cơ tới, nó có thể an nhiên biến thành mưa. Và khi biến thành mưa, đám mây sẽ cười thích thú mà rơi xuống trên cây cỏ, trên ruộng đồng, để làm tròn nhiệm vụ nước mưa của mình. Những đợt sóng trên biển cả cũng là do mưa mà thành. Một chiếc lá cây cũng vậy. Nếu biết quán chiếu theo Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa , chiếc lá sẽ thấy rằng trong suốt mùa thu và mùa hạ, nó đã làm việc hết sức mình để nuôi dưỡng cây. Chúng ta thường nghĩ lá là con cháu của cây, ít khi ta nghĩ rằng lá cũng là mẹ của cây. Sự thực, lá cũng là mẹ của cây, vì chất nhựa do các rễ cây hút từ dưới đất lên, chưa thể dùng để nuôi cây được đó chỉ là nước lã thêm các chất khoáng mà thôi. Chiếc lá, có chức năng quan trọng của nó. Trong sách Thế giới Khoa học của Mcgraw Hill dành cho học sinh tiểu học, đã minh họa cho học sinh hiểu rõ chức năng quan trọng của chiếc lá. Những chiếc lá nhỏ chính là những nhà máy dùng ánh sáng mặt trời và các chất khí trong không gian biến nhựa trong cây thành năng lượng. Màu xanh của lá cũng do mặt trời và những chất khí làm ra. Chiếc lá có thể quán chiếu rằng sự sống của nó chủ yếu là ở trong cây, chứ không phải là chỉ ở trong lá. Lá chỉ là một phần của cây, và là đồng nhất nó với cây. Chiếc lá vàng nhìn lại bản thân và biết rằng trong giai đoạn này nó chỉ là một phần của lá mà thôi. Những chất bổ nó tạo ra bây giờ đang nằm trong cây. Nếu lá nhận thức ra rằng nó là cây, đồng nhất nó với cây, thì chiếc lá đó sẽ không còn sợ hãi, sẽ thấy được sự bất sinh bất diệt của nó khi nó rơi xuống đất. Nó sẽ rơi xuống, một cách rất thanh thản, vừa rơi vừa múa và biết rằng nó tiếp tục làm công việc nuôi dưỡng thân cây. Nó sẽ biến thành đất mùn để lại bón cho cây và sẽ trở lại cây. Như vậy, nó thấy được sự bất sinh bất diệt của chính nó. Ta cũng vậy. Chúng ta sợ hãi vì chúng ta thấy sự sinh diệt qua nhận thức sai lạc của chúng ta vì vọng tưởng của chúng ta về sinh diệt, nên ta mới sợ. Nếu ta quán chiếu được tự thể của mình, biết rằng mình là bản thể của sự sống, chỉ chuyển biến chứ không có sinh diệt, tất ta vượt thoát khỏi sự sợ hãi về sinh diệt. Và chúng ta sẽ bằng lòng với bất cứ hình thức nào mà mình sẽ tiếp nhận sau này. Sự quán chiếu đó, ta có thể thực hiện được. Nếu không học Bát Nhã Tâm Kinh, không học quán chiếu theo đạo Phật, ta không thấy được sự diễn biến của các hiện tượng trong vũ trụ. Quán được như vậy ta sẽ thoát ra khỏi sinh tử, ta sẽ có một nụ cười, sẽ vượt ra cái mà ta gọi là sự sợ hãi. Sự sợ hãi là gánh nặng đè trĩu lên kiếp người chúng ta từ lúc sơ sinh đến khi nhắm mắt. Đức Quán Thế Âm hiến tặng chúng ta kinh này với mục đích giúp chúng ta vượt thoát sự sợ hãi, sự sợ hãi sinh tử. Quán về nhân duyên sinh, ta có thể vượt thoát mọi khổ đau của sự sống. Bây giờ mời đọc giả đọc đoạn Kinh tiếp theo Tam thế chư Phật, y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác. Đoạn Kinh này khẳng định các đức Phật thành đạo ở ba đời cũng chỉ nhờ phương pháp quán sát trí tuệ Bát Nhã này mà thôi, chứ không nhờ phương pháp nào nữa. Mời bạn đọc tiếp đoạn Kinh sauCố tri Bát nhã Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Nghĩa Việt của đoạn Kinh Cho nên phải biết rằng Bát Nhã Ba La Mật Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối. Chú, tiếng Phạn là Dharani, có nghĩa một câu nói thoát ra trong trạng thái hết sức vững chãi. Thân, tâm và ngôn ngữ hoà hợp lại trong một định lực thật lớn, một câu nói có thể thay đổi được hoàn cảnh thì gọi là linh chú. Khi bạn quán chiếu vào điều gì, bạn sẽ nắm bắt chúng rõ ràng như giữ trái cam trong tay. Bồ Tát Quán Thế Âm khi quán chiếu năm uẩn, ngài nhìn thấy bản chất của tương tức của năm uẩn và ngài đã vượt qua mọi nỗi đau. Bồ Tát Quán Thế Âm đã hoàn toàn được giải thoát. Đó là trạng thái thiền định, an lạc, giải thoát, vì vậy mà Bồ Tát Quán Thế Âm thốt ra một điều quan trọng. Đó là lý do tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm nói ra câu thần chú. Mời bạn đọc tiếp đoạn Kinh sauCố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. Dịch nghĩa Việt của đoạn Kinh này Cho nên khi nói đến Bát Nhã Ba La Mật Đa, tức là phải nói câu chú Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. Thần chú Quán Thế Âm là "Gate Gate paragate parasamgate bodhi svaha". Đọc theo âm hán là yết đế, yết đế, ba la yết đế, bồ đề tát sa va. Gate Gate có nghĩa là qua rồi. Paragate qua bên kia rồi. Parasamgate tất cả vượt qua bên kia rồi. Bodhi tỉnh thức. Svaha tiếng reo gọi vui mừng có năng lực thúc đẩy, tương đương với tiếng chào mừng hoặc hò dô ta của mình vậy. Khi bạn lắng nghe thần chú này, bạn nên chú ý, tập trung, từ đó bạn mới có thể nhận được năng lượng từ Bồ Tát Quán Thế Âm. Bản kinh này không chỉ sử dụng để đọc tụng. Mà Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật được xem là một công cụ Bồ Tát Quán Thế Âm ban cho phật tử để thực hiện sự giải thoát cho bản thân và cho tất cả chúng sinh. Nó giống cái cày, cái cái bừa ban cho người nông dân. Trong đạo Phật có ba loại bố thí. Bố thí thứ nhất là bố thí vật. Thứ hai là bố thí trí tuệ, hay còn gọi là Pháp thí. Thứ ba, là loại bố thí cao nhất, vô úy thí. Quán Thế Âm Bồ Tát là vị bố thí cho chúng ta loại Vô úy thí, giúp chúng ta tự giải phóng khỏi nỗi sợ hãi. Đây là tâm Bát nhã. Tâm Kinh Bát nhã cho phật tử một nền tảng vững chắc vô úy thí, thực hành an lạc cho bản thân, vượt qua nỗi sợ hãi của sinh tử. Trong ánh sáng của tánh không, tất cả mọi vật đều có liên hệ với nhau, mỗi vật đều có trách nhiệm với mọi điều xảy ra trong cuộc sống. Nụ cười bạn đang nở trên môi, nó không những làm cho bản thân bạn an lạc mà những người xung quanh bạn cũng an lạc, cả thế giới cũng an lạc. Phật tử khi hồi hướng đều đọc câu nguyện cho thế giới hòa bình, cho chúng sanh an lạc. Nếu bạn không an lạc, không nở nổi nụ cười thân bạn không an lạc hòa bình thì làm sao bạn làm cho mọi người xung quanh nở nụ cười và an lạc được. Mỗi hơi thở, mỗi bước đi, mỗi hành động, mỗi nụ cười, đều có đóng góp tích cực cho sự sống an lạc của bạn và của cộng đồng. Cho nên bạn phải sống một cuộc sống có ý nghĩa ngay trong hiện tại, ngay trong phút giây này. Cảm ơn bạn đã đọc chú giải Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa. Ngày 03 tháng 12 năm 2014 Hoàng Phước Đại Đồng An

bat nha ba la mat da tam kinh giang giai